PHẦN 4. QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Câu 15. Quan niệm và phân loại quyết định HCNN ( Quyết
định HCNN có ý nghĩa như thế nào trong công tác quản lý điều hành của QLHCNN (Thế nào là quyết định HC). Trình bày
cách phân loại quyết định HC. Ý nghĩa của phân loại quyết định HCNN)
Trong Q/lý HCNN, q/định HCNN là một công cụ q/lý HCNN. Ra
quyết định Q/lý HCNN là một trong những chức năng và là vấn đề cốt lõi của q/lý
HCNN. Nói cách khác, để thực hiện chức năng q/lý HCNN, các cơ quan, cán bộ,
công chức HC NN phải ban hành các quyết định HCNN.
* Quyết định HC
Quyết định HC là
mệnh lệnh điều hành của các chủ thể q/lý HCNN được thông qua theo một thể thức
nhất định nhằm thực hiện một mục đích hay một công việc cụ thể.
Quyết định HC chứa
đựng quyền lực NN, dưới góc độ nhất định là hành vi của cơ quan HCNN (hoặc cá
nhân, tổ chức có thẩm quyền) nhằm đưa ra các quy định chung hoặc giải quyết vấn
đề pháp lý HC cụ thể đối lập với tập thể hay cá nhân có ý nghĩa bắt buộc tuân
thủ.
Quyết định HC cũng
chứa đựng trong đó các mục tiêu mà chủ thể mong muốn đạt tới khi thi hành quyết
định và phương tiện để thực hiện chúng.
Quyết định HC là
biện pháp giải quyết công việc chủ thể quản lý NN trước một tình huống đang đặt
ra là sự phản ứng của chủ thể q/lý HCNN trước một tình huống đòi hỏi phải có sự
giải quyết của NN theo thẩm quyền do luật định.
Nhìn một cách tổng
quát, việc ban hành các quyết định là một nhiệm vụ của cơ quan HC NN có thẩm
quyền nhằm định ra chính sách, quy định sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy phạm pháp
luật HC. Chúng có khả năng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hoặc phục hồi các
quan hệ pháp luật HC cụ thể. Khi ban hành quyết định HC, các cơ quan NN thực
hiện nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn mà pháp luật quy định cho mình. Các quyết
định HC được hiểu như là một loại hình của quyết định NN có tính chất chủ yếu.
- Có tính ý chí
quyền lực NN, la kết quả của sự thể hiện ý chí của các cơ quan HCNN có thẩm
quyền thực hiện nhân danh quyền lực NN.
- Có tính pháp lý,
thể hiện hậu quả pháp lý do chúng tạo ra. Quyết định HC tác động vào đời sống
XH bằng việc tạo ra chính sách, sửa đổi, bãi bỏ các quy phạm pháp luật HC, làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt hoặc phục hồi quan hệ pháp luật HC.
- Có tính dưới
luật, chấp hành luật, nghĩa là nội dung của quyết định Hc phải phù hợp với Hiến
pháp, luật và các văn bản của cơ quan NN cấp trên, được ban hành theo trình tự
và hình thức do pháp luật quy định.
Chúng được thi hành
để thực hiện quyền hành pháp tức là h/động chấp hành và điều hành của hệ thống
HCNN và người có thẩm quyền hành pháp.
Với những điểm như
vậy, quyết định HC là tín hiệu điều chỉnh, là thông tin quy phạm của chủ thể
q/lý HC NN, tác động vào khách thể của quan hệ pháp luật HC để thực hiện mục
đích của mình theo quỹ đạo và ý chí của mình.
*Cách phân loại quyết định HCNN
Ý nghĩa của phân loại các quyết định HCNN, là cơ sở để hiểu rõ bản chất của
từng loại. Tạo tiền đề nghiên cứu ban hành tổ chức thực hiện quyết định HCNN có
hiệu lực, hiệu quả. Xác định được điều kiện cơ sở cần thiết để ban hành các
quyết định HC NN thực hiện quyết định HC NN. Ngoài ra, mỗi cách phân loại có ý
nghĩa riêng biệt. Cụ thể:
Căn
cứ vào chủ thể ban hành
- Quyết định QL HC
NN của Chính phủ
- Quyết định QL HC
NN của Thủ tướng Chính phủ
- Quyết định QL HC
NN của Bộ trưởng
- Quyết định QL HC
NN của UBND
- Quyết định QL HC
NN của Chủ tịch UBND
- Quyết định QL HC
NN của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
- Quyết định QL HC
NN liên tịch....
Ý nghĩa của cách
phân loại này cho thấy tính thứ bậc của Quyết định HC tương ứng với thứ bậc của
hệ thống HC NN. Đồng thời cho biết quyết định của cấp dưới ko được trái với
quyết định của cấp trên và nhằm thực hiện quyết định của cấp trên.
2. Căn cứ vào thời gian có hiệu
lực của quyết định
Quyết định HC NN chia thành:
- Quyết định HCNN có hiệu lực lâu dài
được áp dụng cho đến khi có quyết định HCNN khác thay thể.
- Quyết định HC NN có hiệu lực trong một
thời gian nhất định-là những quyết dịnh có ghi rõ thời hạn có hiệu lực, tuỳ
thuộc vò sự kiện xảy ra trong đó.
- Quyết định HC NN có hiệu lực một lần
chỉ giải quyết những nhiệm vụ cụ thể.
Cách phân loại này giúp chúng ta nhận
biết được đặc thù của từng loại quyết dịnh theo hiệu lực thời gian. Ví dụ: đối
với quyết định HC có hiệu lực lâu dài thì phải bảo đảm tính ổn định vừa phải thích ứng sự thay đổi
của đối tượng theo thời gian. Quyết định HCNN có hiệu lực trong một thời gian
dài nhất định phải đảm bảo tính cụ thể về mục tiêu mà quyết định cần đạt được
trong thời gian xác định và phảI thường xuyên dánh giá việc thực hiện mục tiêu
mà quyết định đề ra.
3. Căn cứ vào cấp
HC.
Quyết định HC được
phân thành:
- Quyết định HC cấp
Trung uơng. Do các cơ quan HC cấp trung ương ban
hành.
- Quyết định HC NN cấp địa phương. Do
các cơ quan HCNN cấp địa phương ban hành như: cấp tỉnh, thành phố, trực thuộc
Trung ương, cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, cấp xã, phường, thị
trấn.
Cách phân loại này cho biết, quyết định
HC trung ương khi ban hành phảI bảo đảm tính chất chung, có thể áp dụng chung
cho mọi người địa phương để đảm bảo tính thống nhất. Còn quyết định HC của cấp
địa phương thì phải phù hợp với đặc thù, điều kiện hoàn cảnh địa phương, đại
diện cho lợi ích địa phương.
4. Căn cứ vào ngành, lĩnh vực điều chỉnh của
quyết định.
- Quyết định về lĩnh vực Ktế. - Quyết
định về khoa học công nghệ. - Quyết định về tài nguyên môi trường. - Quyết định về giáo dục. - Quyết định về y tế.
Cách phân loại này giúp chúng ta xác
định được tính chất chuyên môn của việc sọan thảo và ban hành quyết định. Đồng
thời giúp cho việc lưu trữ, truy cập, khai thác và sử dụng thông tin về quyết
định HC một cách thuận lợi và hiệu quả.
5. Căn cứ vào phạm
vi áp dụng quyết định.
- Quyết định toàn
bộ: là quyết định HC áp dụng cho toàn bộ ngành, cấp hành chính hoặc cơ quan.
- Quyết định bộ
phận là những quyết định chỉ áp dụng cho từng bộ phận trong hệ thống.
6. Căn cứ vào tính
chất nội dung.
Đây là cách phân loại cơ bản nhất và có tính thực tiễn nhất. Theo cách phân
loại này quyết định HC NN được phân thành:
a. Quyết định HC NN chung (quyết định cơ bản).
Quyết định HC NN
chung là quyết định HC NN đề ra chủ trương, chính sách, nhiệm vụ, biện pháp lớn
có tính chất chung.
Về cơ bản quyết
định HC NN chung ko có tính quy phạm nhưng nó là cơ sở cho việc ban hành các
quyết định HC NN quy phạm và nó là công cụ định hướng trong thực tiễn lãnh đạo
của hệ thống HCNN.
Cấp ra quyết định HC NN này chủ yếu là Chính phủ và thường thể hiện dưới
hình thức Nghị quyết của Chính phủ.
b. Quyết định HC NN quy phạm:
Quyết định HC NN
quy phạm là quyết định HCNN ban hành các quy phạm pháp luật HC.
Quyết định HC NN
quy phạm mang tính quy phạm và là cơ sở cho việc ban hành các quyết định HC NN
cá biệt, và việc áp dụng no làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ
pháp luật Hc cụ thể.
Quyết định HCNN quy phạm còn
được phân thành:
- Quyết định HCNN
đặt ra các quy phạm lụât HC mới nhằm điều chỉnh đồng bộ, đầy đủ hơn các quan hệ
XH xuất hiện trong q/lý NN.
- Quyết định HCNN
cụ thể hoá các quy phạm pháp luật do Quốc Hội hoặc các cơ quan NN cấp trên ban
hành.
- Quyết định HC NN
thay đổi phạm vi hiệu lực của quy phạm pháp luật hành chính hiện hành về thời
gian, ko gian và đối tượng thi hành.
c. Quyết định HCNN cá biệt
Quyết định HC NNcá
biệt là quyết định HC do các chủ thể quản lý HC NN có thẩm quyền ban hành trên
cơ sở quyết định HCNN quy phạm hoặc trên cơ sở quyết định HC NN cá biệt của cấp
trên nhằm giảI quyết một công việc cụ thể trong q/lý HCNN.
Quyết định HC NN cá
biệt có tính chất đơn phương và tính bắt buộc thi hành ngay. Tính chất đơn
phương và bắt buộc thi hành ngay nhằm bảo đảm hữu hiệu của kỹ thuật lập quy HC,
giúp cho nền HC thực hiện quyền và nghĩa vụ trước XH, duy trì được trật tự q/lý
HCNN.
Tính bắt buộc thi hành ngay và được phép kiếu nại, kiếu kiện ràng buộc đối
với cơ quan HCNN và công dân, tổ chức.
- Đối với công dân,
tổ chức khi nhận được quyết định HCNN thì phảI thi hành ngay nghĩa vụ mà quyết
định đòi hỏi, cho dù dương sự cho rằng quyết định HC NN này là bất hợp pháp,
bất hợp lý, sau đó thực hiện quyền kiếu nại, khiếu kiện của mình.
- Đối với cơ quan
HCNN, nếu quyết định tạo ra cho công dân, tổ chức một quyền lợi, họ yêu cầu
được hưởng quyền lợi đó thì cơ quan HCNN phải có nghĩa vụ thoả mãn ngay đòi hỏi
đó.
Quyết định HC NN cá biệt được
phân thành:
- Quyết định HC cho
phép: là quyết định HC NN cá biệt do các chủ thể q/lý HCNN có thẩm quyền ban
hành để cho phép cá nhân hoặc tổ chức được thực hiện một hoặc một số h/động nào
đó.
Quyết định HC NN
cho phép được ban hành trong trường hợp các cá nhân hoặc tổ chức đề nghị cơ
quan HCNN có thẩm quyền cho phép họ thực hiện một hoặc một số h/động nào đó.
Khi ban hành quyết định HC cho phép, chủ thể q/lý HCNN có thẩm quyền phải căn
cứ vào các điều kiện, yêu cầu của pháp luật, đối chiếu với hồ sơ xin phép của
cá nhân, tổ chức để xác định tính hợp pháp và tính đầy đủ. Nếu hồ sơ đủ điều
kiện thì chủ thể HCNN ra quyết định Hc cho phép còn nếu ko đủ điều kiện thì ra
quyết định từ chối hoặc yêu cầu cá nhân, tổ chức hoàn chỉnh hồ sơ theo quy
định.
- Quyết định HC ra
mệnh lệnh, là quyết định HCNN do chủ thể q/lý HC NN có thẩm quyền ban hành để
ngăn cấm hoặc bắt buộc cá nhân hoặc tổ chức ko được hoặc phảI thực hiện một hay
một số h/động nào đó.
Quyết định HC ra mệnh lệnh được ban hành trong
trường hợp các cơ quan HCNNđang thi hành luật, thoả mãn các nhu cầu công cộng
hoặc an ninh trật tự thì bị vi phạm hoặc trong những trường hợp đăc biệt. Khi
ra quyết định HC ra mệnh lệnh tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, chủ thể HCNN có
thẩm quyền phải tuân thủ các điều kiện và nguyên tắc luật định.
Cách phân loại này
giúp chúng ta xác định vai trò, tính chất của tưnngf loại quyết định, thẩm
quyền ban hành và trường hợp ban hành chúng.
Câu 16. Yêu cầu đối với quyết định HCNN
Trong Q/lý HCNN, q/định HCNN là một công cụ q/lý HCNN. Ra
quyết định Q/lý HCNN là một trong những chức năng và là vấn đề cốt lõi của q/lý
HCNN. Nói cách khác, để thực hiện chức năng q/lý HCNN, các cơ quan, cán bộ,
công chức HC NN phải ban hành các quyết định HCNN.
Quyết định HC NN là kết qủa của sự thể hiện quyền lực đơn
phương của cơ quan HCNN, cán bộ, công chức HCNN được trao thẩm quyền, đuợc ban
hành trên cơ sở luật và thực hiện luật dưới hình thức theo quy định của pháp
luật để đề ra chính sách, đặt ra, sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật HC
hoặc làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật HC cụ thể nhằm
thực hiện chức năng q/lý XH trong phạm vi quyền hành của NN.
Để đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của quyết định HC
thì khi ban hành quyết định HC phải đảm bảo được tính hợp pháp và hợp lý. Tuy
nhiên, giữa tính hợp pháp và hợp lý thì trong mọi trường hợp tính hợp pháp đều
có ưu thế hơn so với tính hợp lý, ko thể vì lý do hợp lý mà coi thường tính hợp
pháp. Tính hợp pháp của quyết định HCNN xuất phát từ tính dưới luật và tính
pháp lý của quyết định HC NN. Còn tính hợp lý của quyết định HCNN xuất phát từ
thực tiễn hoạt động tổ chức và điều hành của HCNN. Cụ thể là:
1. Các yêu cầu về tính hợp pháp
của quyết định HC
Một quyết định HC NN chỉ có hiệu lực thi
hành khi nó hợp pháp. Một quyết định HCNN được coi là hợp pháp khi nó thoả mãn
những yêu cầu sau:
- Quyết định HC NN
phảI phù hợp với nội dung và mục đích của luật. Tức là quyết định HC NN ko được
trái với Hiến pháp, luật và các văn bản q/lý của các cơ quan NN cấp trên. Nội
dung của quyết định HCNN phảI cụ thể hoá và thi hành luật, văn bản của cơ quan
NN và cấp trên vào cuộc sống XH.
- Quyết định HCNN
phải được ban hành trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan hoặc chức vụ. Tức các
chủ thể q/lý HCNN chỉ được phép ban hành quyết định HCNN để giải quyết những
vấn đề XH phát sinh trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật đã trao cho, ko lạm
quyền và lẩn trách nhiệm.
- Quyết định HC NN
phải được ban hành xuất phát từ những lí do xác thực. Tức là các chủ thể q/lý
HCNN chỉ được ban hành quyết định HCNN để
giải quyết những vấn đề XH phát sinh, khách quan, cần thiết, một cách khoa học
tránh tuỳ tiện, chủ quan, duy ý trí. Thông thường chủ thể HCNN ban hành quyết
định HCNN trên cơ sở 3 lý do sau:
+ Do yêu cầu của
cấp trên để giải thích hoặc thi hành quyết định của cấp trên
+ Xuất phát từ sáng
kiến của nhà HC.
+ Do đề nghị của
cấp dưới hoặc cá nhân, tổ chức.
- Quyết định HC NN phải được ban hành đúng hình thức và thủ tục luật định.
Tức quyết định HCNN phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục luật định và
đúng hình thức mà pháp luật đã quy định cho từng loại quyết định HC.
2. Các yêu cầu về
tính hợp lý của quyết định HCNN.
Một quyết định HCNN
chỉ có khả năng thực thi cao khi nó đảm bảo được tính hợp lý. Một quyết định
HCNN được coi là hợp lý khi nó đảm bảo các yêu cầu sau:
- Quyết định HCNN
phải đảm bảo hài hoà lợi ích NN, tập thể và cá nhân. tức là quyết định HCNN
phảI kết hợp hài hoà lợi ích NN, tập thể và cá nhân. lấy lợi ích của NN và lợi
ích chung của nhân dân làm tiêu chí để đánh giá tính hợp lý của quyết định,
tránh vì lợi ích tập thể mà gây tổn hại cho lợi ích chung của XH.
- Quyết định HCNN
phải có tính cụ thể và phù hợp với từng vấn đề, đối tượng.
Quyết định HCNN
phải đảm bảo cụ thể về mục tiêu, chủ thể thực hiện, điều kiện, phương thức thực
hiện, thời gian và ko gian tiến hành. Tuy nhiên mức độ cụ thể còn tuỳ thuộc vào
cấp ra quyết định HC NN và loại quyết định HCNN. Cấp q/lý càng thấp thì mức độ
cụ thể càng cao và ngược lại. Đồng thời quyết định HC NN phải phù hợp với đặc
điểm của từng vấn đề và đối tượng trong từng thời kỳ.
- Quyết định
HCNNphải đảm bảo tính hệ thống, tính toàn diện.
Tính toàn diện của
quyết định HCNN đựơc thể hiện ở việc ban
hành quyết định HCNN phải tính đến hết tất cả các yếu tố: chính trị, kinh tế,
văn hoá, XH, an ninh, quốc phòng, môi trường…phải tính đến tác động trước mắt
và lâu dài, trực tiếp và gián tiếp. tính hệ thống thể hiện ở việc ban hành
quyết định HCNN phải đặt trong một hệ thống các quyết định HCNN khác, phù hợp
và đồng bộ với các quyết định HC NN liên quan, ko mâu thuẫn, triệt để lẫn nhau.
- Quyết định HCNN ban hành phải đảm bảo kỹ thuật lập quy. Tức đảm bảo về
ngôn ngữ, văn phong và cách trình bày.
Văn phong trong
quyết định HCNN là văn phong HC với các đặc điểm; khách quan của cách trình
bày; ngắn gọn và chính xác, tính phổ thông đại chúng và dân tộc, tính khuôn mẫu
chặt chẽ. Ngôn ngữ dùng trong quyết định HCNN là ngôn ngữ tiếng Việt phổ thông.
Đánh giá thực trang
khi ban hành quyết định HC hiện nay, trên các phương diện như:
+ Các quyết định
HCNN trái pháp luật, sai thẩm quyền chiếm tỷ lệ cao.
+ Các quyết định
HCNN chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau mang tính cục bộ.
+ Các quyết định
HCNN sai về nội dung, ko dảm bảo chất lượng, sai hình thức chiếm tỷ lệ cao.
Tất cả những điều
đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực và hiệu qủa của q/lý HCNN, làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với NN, Đảng. Làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài…
3. Yêu cầu cam kết thực hiện.
Liên hệ thực tiễn:
- Tính hợp pháp
- Tính hợp lý
Câu 17. Các yếu tố ảnh hưởng đến ban hành quyết định
HCNN.
* Những yếu tố khách quan:
- Vấn đề quyết
định: Yếu tố khách quan đầu tiên ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định là vấn
đề cần phải giải quyết. Loại vấn đề và tính chất phức tạp của vấn đề quy định
loại quyết định, nội dung và quy trình xây dựng quyết định. Những vấn đề liên
quan đến lợi ích của cộng đồng, các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế
thỡ loại quyết định thường là quyết định chính sách. Những vấn đề liên quan đến
việc điều chỉnh một loại quan hệ SX thỡ cần ban hành quyết định quy phạm. Hoặc
những vấn đề quyết định này trong phạm vi giải quyết tớnh huống cụ thể, gắn với
sự kiện pháp lý thỡ ban hành quyết định hành chính cá biệt...
- Yếu tố thẩm
quyền: Chủ thể HC chỉ có thể ban hành quyết định QLHC để giải quyết vấn đề khi
nó thuộc phạm vi thẩm quyền của nhà hành chính. Tên loại quyết định cũng phụ
thuộc vào thẩm quyền ban hành của người ra quyết định.
- Yếu tố nguồn lực:
Chủ thể HC chỉ có thể ban hành quyết định để giải quyết vấn đề khi nhà HC có
được đầy đủ các nguồn lực để thực hiện quyết định như: tài chính, vật chất,
nhân sự. Trường hợp không có đủ nguồn lực để giải quyết vấn đề thỡ khụng nờn
ban hành quyết định vỡ khi đó, ban hành quyết định QLHC để giải quyết vấn đề
chỉ là sự lóng phớ vụ ớch.
- Yếu tố thông tin:
Thông tin về vấn đề cần giải quyết và các thông tin có liên quan đến giải quyết
vấn đề có ảnh hưởng quyết định đến xây dựng quyết định. Chủ thể hành chính chỉ
có thể tỡm ra được mục tiêu và cách thức để giải quyết vấn đề tốt nhất khi họ
có thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về vấn đề và các yếu tố liên quan. Nếu
không có thông tin hay thông tin không đầy đủ theo yêu cầu trên thỡ sẽ hạn chế
việc tỡm ra các phương án khả thi có để giải quyết vấn đề.
- Yếu tố chính trị:
Việc lựa chọn phương án quyết định để giải quyết vấn đề chịu ảnh hưởng bởi các
định hướng chính trị, công luận, hay nguyện vọng của các nhóm lợi ích chịu tác
động bởi quyết định HC.
- Thời gian ra
quyết định: Thời gian cần thiết cho việc ra quyết định cũng ảnh hưởng đến chất
lượng của các quyết định. Ra quyết định trong thời gian hạn chế, gấp rút thỡ
việc thu thập xử lý thông tin đầy đủ theo yờu cầu là khú thực hiện. Với thời
gian hạn chế, chủ thể HC sẽ khụng tỡm được nhiều phương án quyết định, hoặc là
duy ý chớ trong việc lựa chọn phương án giải quyết vấn đề.
* Những yếu tố chủ quan:
- Năng lực của
người ra quyết định, tác phong của người ra quyết định là yếu tố chủ quan ảnh
hưởng đến việc xây dựng quyết định quản lý HC. Mỗi một nhà hành chớnh cú những
kiến thức kinh nghiệm, tỏc phong, quản lý riờng, những tố chất đó quy định cách
tiếp cận, lối tư duy, việc xác định nội dung và phương pháp ra quyết định.
- Động cơ của người
ra quyết định: Về nguyên tắc, các quyết định QLHCNN được ban hành nhằm phục vụ
lợi ích chung toàn XH và công dân. Nhưng các quyết định này được xây dựng bởi
những con người cụ thể. Đó là những cá nhân hay tập thể có đời sống XH gắn với
những lợi ích khác nhau trong những thời điểm nhấtđịnh, vỡ vậy, nú tạo nờn
những động cơ khác nhau ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động ban
hành và tổ chức thực hiện các quyết đinh.
Câu 18. Quy trình ra quyết định
Trong Q/lý HCNN, q/định HCNN là một công cụ q/lý HCNN. Ra
quyết định Q/lý HCNN là một trong những chức năng và là vấn đề cốt lõi của q/lý
HCNN. Nói cách khác, để thực hiện chức năng q/lý HCNN, các cơ quan, cán bộ,
công chức HC NN phải ban hành các quyết định HCNN.
Quyết định HC NN là kết qủa của sự thể hiện quyền lực đơn
phương của cơ quan HCNN, cán bộ, công chức HCNN được trao thẩm quyền, đuợc ban
hành trên cơ sở luật và thực hiện luật dưới hình thức theo quy định của pháp
luật để đề ra chính sách, đặt ra, sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật HC
hoặc làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật HC cụ thể nhằm
thực hiện chức năng q/lý XH trong phạm vi quyền hành của NN.
Để các quyết định
HC thoả mãn các yêu cầu về tính hợp pháp và tính hợp lý thì việc ban hành quyết
định HCNN thoả mãn các yêu cầu về tính hợp pháp, thì việc ban hành quyết định
HCNN phải tuân thủ một quy trình 4 giai đoạn và 9 bước.Tuy nhiên tuỳ theo từng
mức độ phức tạp và tầm quan trọng của từng loại quyết định HCNN mà việc ban
hành quyết định HC có thể rút gọn và đơn giản hơn. Thông thường các quyết định
HCNN cơ bản và quyết định HCNN quy phạm đòi hỏi tuân thủ nghiêm ngặt các giai
đoạn, các bước
1. Giai đoạn 1: Ban hành quyết định
Đây là giai đoạn
chuyển từ ý tưởng quyết định thành quyết định HC trên giấy. Tất nhiên giai đoạn
này có thể bắt đầu thực hiện khi đã có sáng kiến quyết định hoặc đã xác định
được vấn đề đã quyết định. Sau khi đánh giá khái quát tầm quan trọng của vấn đề và tính cấp
thiết phải giải quyết vấn đề.
Bước 1: Điều tra nghiên cứu, thu thập và xử lý thông tin, phân
tích đánh gía tình hình làm căn cứ cho việc ra quyết định. Dự đoán, lập phương
án và chọn phương án tốt nhất.
- Điều tra, nghiên
cứu, thu thập và xử lý thông tin về vấn đề.
- Xác định nguyên
nhân của vấn đề tức trả lời câu hỏi vấn đề xuất hiện từ những lý do nào?
- Xác định mục tiêu
của quyết định tức trả lời câu hỏi quyết định nhằm đạt cái gì?
Để làm tốt bước này
cần làm tốt nội dung sau:
+ Kiểm tra tính
khách quan và tính chính xác của nguồn thông tin, tránh chủ quan. Cần coi trọng
cả thông tin chính thức và phi chính thức.
+ Chỉnh lý hệ thống
hoá thông tin theo yêu cầu của vấn đề hoặc tình huống quyết định cần phải giải
quyết.
+ Phải nghiên cứu,
xây dựng các phương án quyết định. Trong một phương án phải đề cập được các
phương tiện đảm bảo, các biện pháp áp dụng, thời gian thực hiện và thời gian có
hiệu lực.
+ Cơ quan chủ trì
quyết địn cần phối hợp chặt chẽ với một số cơ quan liên quan khi cần lập một
bản dự thảo.
+ Khi xây dưng
phương án cần có cơ quan hay cố vấn pháp lý tham gia để đảm bảo tính nhất quán,
tính hệ thống của pháp luật.
- Xây dựng phương
án quyết định và lựa chọn phương án quyết định.
+ Xây dựng phương
án để có thể giải quyết vấn đề.
+ Xác định trọng số
của từng yếu tố của từng phương án.
+ Đánh giá hiệu quả
của từng phương án và lựa chọn phương án tối ưu hoặc hợp lý nhất.
Bước 2:
Soạn thảo quyết định
Soạn thảo quyết
định là quá trình lấy ý kiến và chấp bút để hình thành bản dự thảo quyết định.
Để đảm bảo cho quá trình dự thảo được khách quan, đúng đắn cần thực hiện nhưng
yêu cầu sau:
- Cần đưa ra thảo
luận lấy ý kiến của một số cơ quan có liên quan. Tuỳ từng loại quyết định mà
việc lấy ý kiến có tính chất bắt buộc hoặc lấy ý kiến tham khảo.
- Đối với những
quyết định hành chính NN ban hành chủ trương có quan hệ trực tiếp đến đời sống
nhân dân trên phạm vi cả nước cũng như địa phương và đơn vị cơ sở, cần lấy ý
kiến của nhân dân trước khi ra quyết định.
- Các quyết định
HCNN có các nội dung chính trị-xã hội-kinh tế-kỹ thuật sâu sắc cần phảI được
các chuyên gia trong các lĩnh vực đó góp ý kiến.
Bước 3: Thông qua quyết định
Thông qua quyết
định là quá trình đưa dự thảo quyết định thành quyết định HCNN chính thức thông
qua việc thảo luận và đi đến nhất trí, thống nhất các nội dung cần nêu trong
quyết định.
Quyết định HCNN
phải được thông qua theo đúng thủ tục. Có hai phương thức thông qua:
* Thông qua chế độ
tập thể
- Quyết định được
thông qua với số phiếu được pháp luật quy định. 2/3 tổng số thành viên trở lên.
- Chuẩn bị, tổ
chức, điều hành và kết thúc cuộc thảo lụân dự thảo quyết định và thông qua
quyết địnhlà công việc quan trọng. Công việc này cần làm những nội dung sau:
- Hồ sơ đưa ra cuộc
họp phải đầy đủ các tài liệu sau: tờ trình, căn cứ, lý lẽ, nội dung chính, ý
kiến cơ quan hữu quan, phị lục thống kê chọn lọc và một dự thảo quyết định.
- Tài liệu phải gửi
đến từng người dự họp trước một số ngày để họ nghiên cứu trước.
- Tiến hành hội
nghị phải dân chủ, ko được dùng chức quyền và uy tín cá nhân để áp chế. Mặt
khác, trong quá trình hội nghị, chủ toạ phải định hướng tiến trình thảo luận đi
vào những vấn đề trọng tâm, chủ yếu tránh tràn lan, ngoài lề.
- Cách trình bày và
phát biểu thảo luận phải gắn ngọn, rõ ràng, đi thẳng vào dự thảo quyết định.
- Cuối cùng phải sơ
kết vấn đề thảo luận và phát biểu quyết định đã được bổ xung.
- Để đảm bảo chất
lượng hội nghị, người có trách nhiệm phải kiểm tra trước đề án. Chỉ đem ra thảo
luận những đề án có chất lượng, chuẩn bị đúng thủ tục.
* Thông qua quyết
định theo một chế độ thủ trưởng
Trên cơ sở bàn bạc
tập thể, lấy ý kiến người thủ trưởng có quyền tự quyết định và tự chịu trách
nhiệm về quyết định của mình. Do đó đòi hỏi người thủ trưởng phải có bản lĩnh,
dám làm, dám quyết và sẵn sàng chịu trách nhiệm. Muốn vậy ngưòi thủ trưởng phải
có đủ kiến thức về lĩnh vực phụ trách, phải tự nghiên cứu vấn đề, cần lắng nghe
ý kến cấp dưới và phải quyết đoán.
Những sai lầm người
thủ trưởng cấn trách khi quyết định:
- Ra quyết định mà
ko nắm vững yêu cầu thực tế, giải quyết một cách chung chung, ko cụ thể và hiện
thực, ko đủ chính xác, rõ ràng.
- Quá tin vào tham
mưu, người dự thảo và chấp bút, ko điều tra kỹ lưỡng, ko lắng nghe ý kiến người
tham gia,có định kiến sẵn, quá tin vào những hiểu biết của mình đi đến quyết
định một cách phiến diện, chủ quan.
- Ra quyết định
mang tính thỏa hiệp, nể nang, dựa dẫm cấp trên, theo đuổi một cách thụ động, ko
sáng tạo, ko tự chịu trách nhiệm.
- Ra quyết định ko
đúng thẩm quyền, ko đủ căn cứ pháp lý, quyết định trùng lặp, chồng chéo với các
quyết định đã ra trước đây.
Bước 4: Ra văn bản
Đây chính là bước
văn bản hoá các quyết định HCNN. Bước này cần lưu ý đến nguyên tắc, thể thức,
thủ tục và quy chế xây dựng văn bản q/lý HCNN.
2. Giai đoạn 2. Tổ chức thực hiện quyết định HC
Tổ chức thực hiện
quyết định HC là quá trình biến các ý đồ của quyết định thành kết quả thực tế
thông qua các hành động có tổ chức. Hiệu lực và hiệu quả của quyết định chỉ có
thể có được khi quyết định đó được thực thi trong cuộc sống và phụ thuộc vào
việc tổ chức thực hiện nó.
Bước 5: Triển khai quyết định đến đối tượng thi hành bằng phương
tiện nhanh nhất và theo con đường ngắn nhất.
- Nhận được quyết
định, các cơ quan cấp dưới phải triệt để thực hiện bằng cách nghiên cứu kỹ
lưỡng, để ra kế hoạch và biện pháp thực hiện cho phù hợp với điều kiện cụ thể
của ngành, địa phương.
- Công bố, công
khai, tuyên truyền, giả thích ý nghĩa, nội dung trong toàn đối tượng để họ tự
chấp hành, cần phối hợp tốt mọi lực lượng.
Bước 6: Tổ chức thực hiện quyết định HCNN.
- Phân công cho đối
tượng thực hiện theo nguyên tắc phân cho bộ phận thì theo chức năng, phân cho
cá nhân thì theo khẳ năng với tinh thần hợp lý.
- Đảm bảo những
phương tiện vật chất, tài chính và nhân lực cần thiết theo nguyên tắc tiết
kiệm. Đối với các quyết định chính sách, đi kèm với nó là các chương trình, dự
án.
- Phương pháp thực
hiện:
+ Thực hiện thí
điểm ở một số đối tượng, ở một số nơi để rút kinh nghiệm, sơ kết, tổng kết,
điều chỉnh rồi mới triển khai diện rộng.
+ Thực hiện diện
rộng những chỉ đạo điểm để nhanh chóng rút kinh nhiệm chỉ đạo diện.
+ Thực hiện đại trà
trong toàn bộ đối tượng, lĩnh vực điều chỉnh, tác động bởi quyết định.
Lựa chọn phương án
nào là tuỳ thuộc vào tính chất, nội dung thời gian, điều kiện và tình hình cụ
thể.
Bước 7: Xử lý thông tin phản hồi, điều chỉnh quyết định kịp
thời.
Trong quá trình
thực hiện quyết định, cần phải theo dõi tiến độ thực hiện và có những điều
chỉnh cần thiết, thậm chí có thể phải sửa đổi, bổ xung hoặc đình chỉ, bãi bỏ
quyết định cũ thay thể quyết định mới khi quyết định đó ko đúng, ko chính xác.
Tuy nhiên, chỉ cần điều chỉnh quyết định khi thấy thật sự cần thiết, sau khi đã
có kết luận rõ ràng, để tránh gây ra tâm lý ko ổn định và làm giảm lòng tin của
cấp dưới, của người thực hiện.
Giai đoạn 3. Kiểm tra việc thực hiện quyết định
Bước 8: Kiểm tra
Kiển tra việc thực
hiện quyết định là khâu đảm bảo sự thành công và hiệu quả của quyết định và
thực hiện quyết định phải gắn liền với kiểm tra thực hiện quyết định. Cú nhiều hình
thức kiểm tra:
- Kiểm tra thường
xuyên và toàn diện trong suốt quá trình diễn biến thực hiện quyết định
- Kiểm tra đột
xuất, có trọng điểm, nhằm vào một số khâu nhất định.
- Kiểm tra tổng kết
việc thực hiện quyết định.
Bước
9. Xử lý kết quả kiểm tra
Căn
cứ vào kết quả kiểm tra, cấp có thẩm quyền phải có biện pháp sử lý:
- Đôn đốc việc thực hiện, bổ sung quyết
định cần thiết.
- Khen thưởng người tốt việc tốt.
- Xử lý cơ quan, người phạm sai lầm,
khuyết điểm
- Sơ kết công việc kiểm tra.
Giai
đoạn 4. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện quyết định
Sau khi thực hiện quyết định quản lý,
điều quan trọng là phải đánh giá một cách trung thực, cụ thể, chính xác kết quả
hoạt động quản lý. Đánh giá quyết định phải trung thực nhỡn thẳng vào sự thật,
núi đúng sự thật, không giấu giếm khuyết điểm , tránh khoa trương thổi phồng
thành tích.
Từ việc phân tích các bước của giai đoạn ban hành và
tổ chức thực hện quyết định theo mô hình hợp lý. Theo khoa hoc HC có 5 khó
khăn hạn chế ảnh hưởng đến việc ra quýêt định HC.
1. Tính phức tạp của vấn đề, mục tiêu và sự cam kết
của các Quyết định HC.
Trong q/lý HCNN, vấn đề cập và mục tiêu
vạch ra có thể rất khác nhau từ nhiều khía cạnh. Một sự cam kết của các cơ quan
HC cũng có thể được xem là dấu hiệu để loại bỏ việc xác định mục tiêu của quyết
định HC. Sự phân tích các khả năng để xác định vấn đề cũng có thể bị lu mờ bởi
sự khác nhau trong tư duy. Một vấn đề chính là dấu hiệu khó khăn nhận được từ
môi trường của các cơ quan HC. Trên thực tế những khó khăn đó ko phải luôn được
chuyển tải trực tiếp đến cho các nhà HC do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong
đó có cả những nguyên nhân về thể chế; cũng có những nguyên nhân thuộc về hành
vi.
Xác định vấn đề và sự đồng ý chung của
nhiều người có liên quan đến các vấn đề HC phải quyết định được xem như bước
quan trọng để xác định các bước tiếp theo. Nếu ko có sự thoả thuận mang tính
chung khó có thể khả thi để đi đến các nội dung khác. Xác định được vấn đề được
thoả thuận là khâu khó khăn ko những ko rõ ràng như trong các quyết định sản
xuất, kinh doanh. Vấn đề nói chung và vấn đề mà các nhà HC quan tâm ko phải
luôn tồn tại rõ ràng trong thực tế. Muốn tìm ra nó đòi hỏi phải thông qua một quá
trình quan sát, đánh giá và lôi kéo thực tế. Quá trình này của HC có sự tham
gia của nhiều người và đó cúng chính là khó khăn mà các nhà HC phải giải quyết
khi lựa chọn vấn đề.
Tính đa dạng của các vấn đề là khó khăn
trong xác định mục tiêu và biện pháp để giải quyết vấn đề. Xác định mục tiêu
liên quan đến việc chuẩn đoán, phán xét khả năng tương lai cúng chứa đụng nhiều
yếu tố ko rõ ràng. Ví dụ, khi nhận định về sự chưa thích ứng của giáo dục phổ
cập tiểu học và trung học cơ sở, mục tiêu trọn gói, cũng như chính sách liên
quan tới nhiều khía cạnh khác nhau như giáo trình, giáo viên đến nguồn tài
chính hỗ trợ. Nếu như chỉ để cập đến một khía cạnh nào đó của vấn đề, thì ko
thể đạt mục tiêu của quyết định mang tính vĩ mô của NN là phổ cập giáo dục tiêu
học hay Trung học cơ sở.
Mục tiêu được xác định là hình ảnh tương
lai của tổ chức HCNN được hình thành trong các nhà HC. Tuy nhiên, vấn đề này
lại ko chỉ nhà HC quyết định. Những thủ tục, thể chế có thể ngăn cản một sự
thay đổi cần cho việc thực hiện quyết định trong tương lai. Điều đó cũng có
nghĩa là khó khăn gây hạn chế việc xác định mục tiêu của quyết định HC.
2. Hạn chế vế
thông tin để ra quyết định HC.
Quyết định HC phải được lựa chọn một
cách hợp lý. Nhưng có nhiều yếu tố, trong đó thiếu thông tin cản trở việc làm
quyết định hợp lý. Việc thiếu thông tin do nhiều lý do khác nhau.
Trước hết, do chi phí để quy tụ tất cả
những quan tâm xác định vấn đề và mục tiêu.
Hai là, do chi phí thời gian cho việc
đánh giá, xem xét và lựa chọn các phương án cần thiết để quyết định. Thông
thường do quá nhiều nhóm lợi ích có liên quan nên các cuộc họp thường kéo dài,
nhiều lần và ko đi đến kết quả mong muốn.
Ba là, do các nhà HC ko muốn bỏ mất
nhiều cơ hội khi dành nhiều thời gin cho một quyết định cụ thể. Họ phải đưa ra
nhiều quyết định khác nhau trên nhiều lĩnh vực và mỗi lĩnh vực được họ đặt cho
một trọng số.
Bốn là, do thành
viên của các quyết định HC thờ ơ với việc thu thập thông tin về quyết định HC,
khi cần làm quyết định lại ko đủ điều kiện để tìm kiếm nó. Cần đưa ra quyết
định HC nhưng lại thiếu thông tin về chính vấn đề đó.
Năm là, do ko áp dụng được những ký
thuật dự đoán,dự báo và ko đủ kinh phí cần thiết cho hoạt động này.
Sáu là, do nhiều báo cáo của các nhà
chính trị, HC quá phức tạp và làm cho các nhà HC khó có thể tìm thấy trong đó
nhưũng thông tin cần thiết cho quyết định nếu như ko có kinh phí và thời gian
để xử lý.
Bảy là, do năng lực của các nhà HC hạn
chế trong việc tiếp cận thông tin và xử lý thông tin . Nhiều công nghệ hiện đại
cho phép họ tiếp cận thông tin, nhưng năng lực hạn chế và do đó để mất cơ hộ
thông tin.
3. Đòi hỏi, cam kết, ngăn chặn và sự ko thích ứng
của các nhà HC trong qua trình làm quyết định.
Cơ quan HC gồm nhiều thành viên được tập
hợp trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Trong qúa trình lựa chon vấn đề xác
định mục tiêu, trong ko ít trường hợp, ý muốn cá nhân của từng thành viên len
lỏi vào quá trình quyết định. Họ đại điện cho những nhóm lợi ích khác nhau và
do đó có thể có những nhu cầu, cam kết và những cản trở nhất định đối với cam
kết của nhièu nhóm khác. Nếu thể chế HC ko có cách thức để loại trừ nhân tố đó
thì khó có thể làm cho quyết định HC hợp lý.
4. Tổ chức đơn vị HC và quan hệ giữa lập pháp và
hành pháp.
Nhiều loại thủ tục HC có sức cản trở
việc xác định mục tiêu và chính sách. Nhiều loại thủ tục HCNN ko phải do HC mà
do các nhà lập pháp thiết lập. Các thủ tục theo hình thức này thường thiếu tính
linh hoạt, sẽ dẫn đến tính quan liêu trong quyết định HC.
Một số vấn đề khác được đề cập là quan
hệ giữa các nhóm chuyên gia thiếu sự hợp tác, giao tiếp, do vậy đều tìm cho
mình một sự hợp lý, gây khó khăn cho
việc ra quyết định.
Một số h/động HCNN bị ràng buộc ngay
chính các nhà lập pháp khi họ đưa ra những nền tảng pháp luật cơ bản cho HC
h/động. Mối quan hệ tương đối phức tạp này tuỳ thuộc vào tương quan giữa hành
pháp và lập pháp.
Vd: ở Việt Nam, quyền lực NN là thống
nhất ko phân chia nhưng có sự phân công, phân cấp, phân quyền.
5. Những hành vi
tiêu cực của các nhà HC.
Trong nhiều trường hợp, những hành vi
tiêu cực được gọi nhu là hành vi cản trở của các h/động giao tiếp cần thiết
trong quá trình quyết định.
(Nêu VD)
PHẦN KHÔNG CÓ TRONG CÂU HỎI
Những đk cơ bản cần cho ra quyết
định HCNN.
- Có vấn đề ra quyết định
- Chủ thể hành chính có
nguyện vọng giải quyết vấn đề
- Có khả năng giải quyết
vấn đề
- Có sự ủng hộ của người thực hiện.
*Tài liệu phần 4 tải tại đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét