<<< CHÀO MỪNG BẠN GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN CỦA LỚP CHUYỂN ĐỔI THI CAO HỌC HÀNH CHÍNH CÔNG TẠI QUẢNG BÌNH NĂM 2012 - MỌI THÔNG TIN XIN GỬI VỀ ĐỊA CHỈ E-MAIL: vinhsanqb@gmail.com >>>

Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

TÀI LIỆU ÔN TẬP MÔN HÀNH CHÍNH (Phần 3)

PHẦN 3. CHỨC NĂNG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Câu 10. Quan niệm về chức năng và phân loại chức năng HCNN
Chức năng là một từ để chỉ công cụ có tính thông dụng của một đồ vật hay bộ phận. Chức năng cũng có nghĩa là một vụ hay mục đích đặc biệt của một bộ phận, đồ vật hay môt người. Ví dụ: Tim có chức năng đẩy máu đi khắp cơ thể.

Chức năng của cơ quan NN của mọi quốc gia đều do Hiến pháp, các đạo luật hay các văn bản PL khác quy định. Tuỳ thuộc vào thể chế chính trị, thể chế NN, pháp luật quy định cụ thể chức năng của các cơ quan NN.
Chức năng HCNN là những phương diện, hoạt động chủ yếu của HC được hình thành thông qua quá trình phân công lao động trong các cơ quan NN. Chức năng HC phản ánh vai trò của HC trong hoạt động QLNN.
Chức năng HCNN là loại hoạt động HC được tách ra trong quá trình phân công lao động q/lực và chuyên môn hóa lao động của các cơ quan HCNN được thực thi trong từng thời kỳ nhất định. Thông qua các chức năng phản ánh vị trí, vai trò hoạt động của các cơ quan thực thi quyền hành đối với đời sống xã hội.
Chức năng HCNN của mỗi quốc gia phụ thuộc vào vị trí và mối quan hệ giữa các cơ quan NN trong bộ máy QLNN nói chung và của các cơ quan quản lý HC nói riêng. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam, NN cộng hoà XHCN Việt Nam và các tổ chức chính trị XH hoạt động một cơ chế nhất định nhằm bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Trong hệ thống chính trị Đảng là lực lượng lãnh đạo, NN là trụ cột, công cụ thực hiện quyền lực, là trung tâm quản lý XH. Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Các cơ quan HCNN ở trung ương (gồm các Bộ và các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ) chịu trách nhiệm quản lý thống nhất các ngành, các lĩnh vực, các vùng, các thành phần kinh tế khác nhau trong phạm vi cả nước. Các cơ quan HCNN ở địa phương (gồm UBND các cấp, các sở, ban ngành trực thuộc) là cơ quan chấp hành. HĐND, Cơ quan HCNN ở địa phương chịu trách nhhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của CQNN cấp trên, NQ của Hội đồng nhân dân; chịu trách nhiệm quản lý về mặt NN đối với tất cả các lĩnh vực, các hoạt động ở địa phương dưới sự chỉ đạo, điều hành thống nhất của Chính phủ.
Chính phủ có quyền lập quy, quyền hành pháp.
Phân loại chức năng HC:
Việc phân loại có vai trò đặc biệt quan trọng. Phân loại chức năng HC bảo đảm quá trình HC được tiếp cận một cách bao quát, trọn vẹn hoàn chỉnh đối với từng cơ quan, từng chức vụ, từng cấp HC trong các ngành các lĩnh vực khác nhau của đời sống XH.
Điều này có ý nghĩa thiết thực và trực tiếp đến thiết kế bộ máy, thiết lập các mối quan hệ phối hợp ngành, cấp, cơ cấu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, và xây dựng phong cách chế độ làm việc của đội ngũ cán bộ công chức cho từng cấp HC.
Phân lại chức năng HC tạo cơ sở khách quan cho việc xác định khối lượng công việc theo từng chức năng xây dựng mô hình tổ chức cho từng loại cơ quan HC.
Mặt khác, phân loại chức năng HC là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ăn khớp phù hợp giữa các chức năng, cơ cấu bộ máy HC giữa các cấp, các ngành phòng ngừa và sửa chữa có hiệu quả sự trùng hợp, chồng chéo, bỏ trống, giành giật đổ lỗi cho nhau giữa các cơ quan HC NN.
Có nhiều cách phân loại chức năng khác nhau theo mức độ tổng quát và chi tiết. Dưới đây là một số cách phân loại cơ bản:
- Phân loại theo phạm vi thực hiện chức năng, có chức năng đối nội, chức năng đối ngoại.
- Phân loại theo tính chất hoạt động có chức năng lập quy và chức năng hành chính.
- Phân loại theo các lĩnh vực chủ yếu: chức năng chính trị, chức năng kinh tế, chức năng văn hoá, chức năng xã hội.
- Phân loại theo cấp hành chính, có chức năng hành chính Trung ương (chức năng của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ); chức năng hành chính địa phương (chức năng của UBND và các cơ quan chuyên môn các cấp).
- Phân loại theo nhóm chức năng bên trong và bên ngoài hệ thống hành chính gồm:
+ Chức năng bên trong (nội bộ): Gồm các chức năng vận hành nội bộ nền hành chính hoặc cơ quan hành chính: lập kế hoạch, tổ chức, nhân sự, ra quyết định, phối hợp, lãnh đạo, ngân sách, báo cáo, kiểm soát.
+ Chức năng bên ngoài: Gồm có các chức năng cơ bản của hành chính nhà nước; các chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực cụ thể và chức năng cung ứng dịch vụ công.
3. ý nghĩa của việc nghiờn cứu chức năng HCNN
Thứ 1, thông qua việc xem xét chức năng HC có thể xác định được các nội dung của HCNN
Thứ 2, chức năng HCNN là một trong những căn cứ quan trọng nhất để thiết lập các cơ quan HCNN và cũng là lý do chớnh đáng của sự tồn tại của chủ thể HC nhất định.
Thứ 3, bảo đảm quá trình HC được tiếp cận một cách bao quát, trọn vẹn, hoàn chỉnh đối với từng cơ quan, từng chức vụ, từng cấp hành chính trong các ngành lĩnh vực, khác nhau của đời sống XH.
Thứ 4, tạo cơ sở khách quan cho việc xác định khối lượng công việc theo từng chức năng, xây dựng mô hình tổ chức cho từng loại cơ quan HC, đặc biệt mô hình tổ chức cơ quan hành chính cấp bộ, cơ quan ngang bộ và mô hình tổ chức UBND các cấp.
Thứ 5, đảm bảo sự phù hợp, ăn khớp giữa các chức năng của các cơ quan trong bộ máy HCNN, giảm thiểu sự chồng chéo hoặc bỏ trống chức năng trong hệ thống HCNN.
Thứ 6. giúp cho việc xác định mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành bộ máy HCNN.
Thứ 7, nghiên cứu chức năng HCNN để phân biệt với các chức năng của hệ thống các cơ quan nhà nước như sau: chức năng lập pháp, chức năng tư pháp.
Thứ 8, nghiên cứu chức năng HC tạo cơ sở khoa học cho việc xác định thể chế HC, quy chế công vụ và các chính sách phát triển nguồn nhân lực.

Câu 11. Chức năng quản lý hệ thống HCNN (Chức năng bên trong của hành chính nhà nướ)
Xem xét chức năng hành chính nhà nước khi vận hành vào một cơ quan hành chính công quyền (vi mô) hay hệ thống hành chính nhà nước (vĩ mô) là sự chi tiết hoá các chức năng hành chính thành những hoạt động hành chính thường xuyên, ổn định. Bởi vậy chức năng này còn được gọi là chức năng vận hành của hệ thống hành chính.
Chức năng bên trong của hành chính nhà nước bao gồm: chức năng hoạch định; chức năng tổ chức; chức năng nhân sự; chức năng ra quyết định hành chính; chức năng lãnh đạo; chức năng phối hợp; chức năng tài chính; chức năng báo cáo; chức năng kiểm soát.
2.1. Chức năng hoạch định.
Hoạch định là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, là tiến trình kết hợp tất cả các mặt của tổ chức, đồng thời nó là cơ sở cho việc thực hiện các chức năng còn lại.
Hoạch định là một quá trình xác định những mục tiêu tương lai và các cách thức thích hợp để đạt mục tiêu đó. Hay nói cách khác, hoạch định là một quá trình nhằm trả lời các câu hỏi như: làm cái gì, ai làm, khi nào làm, làm ở đâu, làm như thế nào.
Hoạch định có một vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động quản lý nói chung và hành chính nhà nước nói riêng. Cụ thể là:
- Giúp cho cơ quan đối phó với sự bất định và thay đổi trong tương lai.
- Tập trung các nỗ lực của cơ quan hành chính nhà nước vào việc hoàn thành mục tiêu đặt ra.
- Tạo được khả năng tiết kiệm các nguồn lực của cơ quan.
- Là cơ sở cho việc thực hiện chức năng kiểm soát.
Hoạch định bao gồm ba giai đoạn tiến hành cơ bản:
Thứ nhất, xác định mục tiêu: Thực chất giai đoạn này cần xác định rõ tổ chức mong muốn hướng tới điều gì? Để xác định đúng mục tiêu của tổ chức cần tiến hành các hoạt động cụ thể như:
- Phân tích nhu cầu thông qua dự đoán, dự báo nhu cầu của xã hội đối với tổ chức;
- Đánh giá, phân tích thực trạng của tổ chức (khả năng đáp ứng nhu cầu)
Thứ hai, xây dựng các kế hoạch  hành động nhằm thực hiện mục tiêu: Thực chất của giai đoạn này là xây dựng các bước đi cụ thể để thực hiện mục tiêu. Tức là trả lời các cầu hỏi: phải làm gì? ai làm? khi nao làm? làm ở đâu? và làm như thế nào?
Thứ ba, đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu kế hoạch. Đo lường kết quả đạt được và so sánh với mục tiêu đã đề ra nhằm xác định có hoàn thành, không hoàn thành hay hoàn thành vượt mức kế hoạch.
2.2. Chức năng tổ chức.
Chức năng tổ chức là một quá trình của quản lý bao gồm các hoạt động nhằm thiết lập một cơ cấu tổ chức hợp lý, phân công lao động và phối hợp hoạt động giữa các cá nhân, bộ phận phù hợp  năng lực của cá nhân, bộ phận; thiết lập môi trường làm việc tập thể.
Chức năng tổ chức bao gồm các nội dung cơ bản:
- Xây dựng cơ cấu tổ chức hợp lý: thiết kế cơ cấu tổ chức gọn, phù hợp với mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức; phân định trách nhiệm rõ ràng; và tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo và phối hợp.
- Phân công công việc cho từng cá nhân, bộ phận. Phân công cho cá nhân phù hợp với năng lực; phân cho bộ phận theo chức năng với tinh thần hợp lý.
- Xây dựng các mối quan hệ bên trong - bên ngoài; quan hệ trực thuộc (trên - dưới); quan hệ phối hợp (ngang) 
2.3. Chức năng nhân sự.
Chức năng nhân sự là cung cấp con người; duy trì và phát triển con người và cung cấp các chức vụ cho cơ cấu tổ chức.
Chức năng nhân sự gồm những nội dung cơ bản sau:
- Tuyển dụng; - Sử dụng; - Quản lý hồ sơ nhân sự; - Đánh giá; - Khen thưởng, kỷ luật, thăng chức; - Thuyên chuyển, điều động, biệt phái; - Giải quyết các chế độ chính sách; - Đào tạo và phát triển nhân lực để họ có thể thực hiện những nhiệm vụ được giao một cách có hiệu lực, hiệu quả;- Chấm dứt nhiệm sở của cán bộ, công chức.
2.4. Chức năng ra quyết định.
Đây là chức năng cơ bản của quản lý vì quản lý suy cho cùng là hoạt động ra quyết định. Chủ thể quản lý muốn tạo ra một tác động hành chính đều phải thông qua các mệnh lệnh, đó chính là quyết định.
Ra quyết định bao gồm các công việc:
- Xác định vấn đề;
- Xác định các tiêu chí quyết định và trọng số của từng tiêu chí;
- Xây dựng các phương án giải quyết vấn đề và phân tích các phương án;
- Lựa chọn phương án tối ưu và thông qua quyết định;
2.5. Chức năng lãnh đạo.
Lãnh đạo là khởi động tổ chức hoạt động và đưa nó đến mục tiêu theo kế hoạch. Chủ thể quản lý sử dụng quyền lực của mình để tác động lên đối tượng quản lý một cách có chủ định để nhằm hướng họ đến việc thực hiện mục tiêu.
Chức năng lãnh đạo bao gồm hướng dẫn và thúc đẩy mọi người làm việc vì mục tiêu chung.
Chức năng lãnh đạo bao gồm các công việc như:
- Hướng dẫn cấp dưới thực hiện công việc: Xây dựng các chỉ dẫn cụ thể để thực hiện các quyết định của cấp trên, hướng dẫn thực hiện công việc thông qua các kế hoạch thực thi; huấn luyện cấp dưới; thông qua các hội nghị...
- Chỉ đạo các cấp dưới trong việc thực hiện các công việc đã phân công  thông qua việc ra các mệnh lệnh, chỉ thị;
- Khuyến khích, động viên, tạo cơ hội cho cấp dưới tham gia các hoạt động của tổ chức. Người lãnh đạo cần khuyến khích động viên và tạo điều kiện tốt nhất để các cá nhân trong tổ chức tự vươn lên khẳng định mình, thông qua các hoạt động như ủy quyền, trao quyền cho cấp dưới; tập trung vào nhân viên; phát triển tinh thần tập thể.
2.6. Chức năng phối hợp.
Đây là chức năng điều hoà hoạt động của các cá nhân, bộ phân, đơn vị lệ thuộc, thiết lập một sự liên lạc đơn giản nhưng hợp lý giữa các cá nhân, đơn vị trong cơ quan. Nhờ sự phối hợp này hoạt động của các cá nhân, bộ phận, đơn vị trong cơ quan ăn khớp với nhau, sẽ tránh những trùng lắp, những quá trình nặng nề vì thủ tục rườm rà hay hệ thống thông báo phức tạp.
Phối hợp là một trong những công việc chính của người lãnh đạo, vì có điều hoà được các hoạt động của các đơn vị lệ thuộc mới có thể kiểm soát và điều khiển các đơn vị đó. Muốn phối hợp người lãnh đạo phải có một tầm nhìn tổng quát để chỉ huy các đơn vị mình điều khiển.
Chức năng phối hợp bao gồm các hoạt động:
- Xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cá nhân, bộ phận, đơn vị trong cơ quan. Cơ chế phối hợp thường được thể hiện cụ thể trong nội quy, quy chế hoạt động của cơ quan.
- Thiết lập mối quan hệ liên lạc, thông tin đơn giản, hiệu quả giữa các bộ phận trong cơ quan thông qua hình thức họp giao ban định kỳ, cơ chế thông báo, báo cáo…
2.7. Chức năng tài chính.
Đây là chức năng liên quan đến việc phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính trong cơ quan, bao gồm từ việc dự trù kinh phí hoạt động hàng năm theo các chương trình, kế hoạch, dự án được duyệt; sử dụng một cách có hiệu quả cho đến việc kiểm soát chi tiêu theo đúng chế độ, đúng phân cấp.
2.8. Chức năng báo cáo.
Báo cáo là một phương tiện chủ yếu để nhà lãnh đạo duy trì sự kiểm soát trách nhiệm và quyền hành đã uỷ quyền cho cấp dưới.
Chức năng báo cáo là thiết lập các báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất của cấp dưới để trình nộp cấp trên. Nó là cơ sở để cấp trên đánh giá kết quả hoạt động của cấp dưới.
Các báo cáo có thể sử dụng bao gồm: báo cáo miệng; báo cáo bằng văn bản; báo cáo thống kê.
Trong các bản báo cáo này cần đánh giá việc thực hiện mục tiêu, số lượng, chất lượng, hiệu quả thực hiện công việc. Chức năng này đóng vai trò quan trọng, giúp người lãnh đạo thẩm tra những việc đã làm được, những việc chưa làm được, làm cho phong phú thêm tính lý luận và thực tiễn hành chính, từ đó đề ra phương hướng, giải pháp cho nhữnng năm tiếp theo.
2.9. Chức năng kiểm soát.
Để hoàn thành chức năng lãnh đạo thì người thủ trưởng cơ quan cần phải thực hiện chức năng kiểm soát. Kiểm soát là một chức năng của quản lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của tổ chức theo tiêu chuẩn định trước.
Chức năng kiểm soát là hoạt động của quản lý nhằm đảm bảo hoạt động của cơ quan đang được tiến hành theo đúng dự kiến, tuân thủ các quy định, đồng thời, phát hiện những sai sót, sai lệnh, vi phạm, từ đó đưa ra các biện pháp cần thiết để sửa chữa những sai sót, tối thiểu hoá những sai lệch và xử lý những vi phạm.
Mục đích của kiểm soát là nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả quản lý của cơ quan.
* Liên hệ thực tế tại một cơ quan nào đó

Câu 12,13 . Chức năng điều tiết trong các lĩnh vực kinh tế - XH (Chức năng hành chính nhà nước đối với bên ngoài)
Chức năng hành chính nhà nước đối với bên ngoài là sự cụ thể hoá các vai trò, nội dung của hành chính nhà nước đối với xã hội và những chức năng này còn được gọi là chức năng điều tiết và can thiệp. Khi xem xét chức năng hành chính nhà nước đối với bên ngoài, chúng ta có thể phân chia thành: các chức năng cơ bản của hành chính nhà nước; chức năng hành chính nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực;  và chức năng cung ứng dịch vụ công.
1. Những chức năng cơ bản của hành chính nhà nước.
Trong thực tế, có những công việc chính phủ có thể làm hoặc có thể không phải làm, có những công việc chính phủ làm rất tốt và cũng có những công việc chính phủ làm kém. Tuy nhiên, sự hiện diện của chính phủ là cần thiết, để bù đắp và khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Dưới đây là những chức năng cơ bản của chính phủ:
- Thứ nhất, cung cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.
- Thứ hai, giải quyết và hòa giải các mâu thuẫn trong xã hội.
- Thứ ba, duy trì cạnh tranh.
- Thứ tư, bảo vệ các nguồn lực tự nhiên.
- Thứ năm, bảo đảm sự tiếp cận tối thiểu của cá nhân đối với các hàng hóa và dịch vụ kinh tế.
- Thứ sáu, duy trì sự ổn định của nền kinh tế.
2. Chức năng hành chính nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực.
Chức năng hành chính nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thể hiện nội dung của hành chính nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực cụ thể được thể hiện thông qua một số nội dung:
- Định hướng phát triển đối với ngành hoặc lĩnh vực của đời sống xã hội;
- Tạo môi trường pháp lý phù hợp cho các ngành, lĩnh vực phát;
- Khuyến khích, hỗ trợ, điều tiết các ngành, lĩnh vực;
- Ngăn ngừa, khắc phục những yếu tố tiêu cực phát sinh trong phạm vi ngành, lĩnh vực;
3. Chức năng cung cấp dịch vụ công cho xã hội.
Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng cung cấp dịch vụ công của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, việc cung cấp dịch vụ công thỏa mãn nhu cầu của nhân dân không chỉ do Chính phủ đảm nhiệm mà còn có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác dưới sự kiểm soát của Chính phủ. Hiện nay, nhiều hoạt động cung cấp dịch vụ công thu phí đang chuyển dần sang cho khu vực tư nhân, hành chính nhà nước chủ yếu đóng vai trò thúc đẩy, kiểm soát.
Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, do Nhà nước trực tiếp đảm nhận hay uỷ quyền cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm đảm bảo trật tự, lợi ích chung và công bằng xã hội.
Về nguyên tắc, Chính phủ không nhất thiết phải trực tiếp cung cấp các dịch vụ công mà là đảm bảo rằng các dịch vụ đó được cung cấp trên thực tế. Do vậy, Chính phủ chỉ tập trung cung cấp những hàng hóa, dịch vụ mà xã hội cần trong những trường hợp sau:
- Thiếu người cung cấp do đòi hỏi tiềm lực kinh tế, nhân lực lớn…;
- Các chủ thể khác không muốn cung cấp do lợi nhuận thấp;
- Các chủ thể khác cung cấp không hiệu quả;  
- Các dịch vụ mà Nhà nước chưa thể chuyển giao cho các chủ thể khác làm (các chủ thể khác muốn cung ứng nhưng Nhà nước không cho phép).
Việc xác định những dịch vụ công nào do hành chính nhà nước trực tiếp cung ứng tùy thuộc vào quan điểm chính trị và điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn của mỗi quốc gia.
Câu 14. Phương pháp và phương tiện thực hiện chức năng HCNN
Khái niệm : Phương pháp HCNN là cách thức tác động của chủ thể HCNN lên đối tượng của HCNN (cá nhân, tổ chức) nhằm đạt những mục tiêu xác định.
Các cơ quan HC NN sử dụng các phương pháp để điều hành để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan và chức vụ HCNN.
 Để điều hành hoạt động của bộ máy HC, các nhà HC có thể sử dụng các phương pháp khác nhau nhằm đảm bảo cho cơ quan HC hoạt động thông suốt, trôi chảy và có thể phân chia phương pháp này thành ba nhóm:
Nhóm A. Phương pháp điều hành hoạt động trong các cơ quan HC; trong các cơ quan HC sử dụng phương pháp chủ yếu là: ra chính sách, kiểm soát công việc, cung cấp điều kiện cần thiết để thực thi các nhiệm vụ.
- Ra chính sách là một nội dung quan trọng trong quản lý nội bộ ra chính sách phải vươn đến được việc ra quyết định về hoạt động trong tương lai nhằm làm cho HC thích ứng với điều kiện và mục tiêu của quyền hành pháp.
- Kiểm soát cán bộ là những người làm việc trong khu vực NN nói chung và trong các cơ quan HC nói riêng có những nét đặc trưng riêng mà các loại tổ chức khác không có.Nhiều yếu tố liên quan đến quản lý đũi hỏi ỏp dụng các phương pháp khác nhau.
- Kiểm soát công việc là một cách điều hành công sở hoạt động như mong muốn, và nó được áp dụng những nguyên tắc của khoa học quản lý.
- Cung cấp các nhu cầu cần thiết là một phương pháp để bộ máy Hc vận hành như mong muốn, cung cấp các nhu cầu và tuỳ vào từng điều kiện, từng giai đoạn cụ thể.
Các phương pháp này thường được liên kết với nhau trong một tổng thể chung để đạt được hiệu quả cao nhất.
Nhóm B. Phương pháp thực hiện thẩm quyền hành chính NN: Các phương pháp này được áp dụng để thực hiện các chức năng điều tiết, can thiệp bên ngoài, tức là thực hiện thẩm quyền HCNN đảm bảo hiệu lực và hiệu quả trongviệc thực hiện hệ thống văn bản pháp luật.
 Để thực hiện thẩm quyền HC NN cần tiến hành đồng bộ các phương thức:
- Uỷ quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tức là HC được quyền đưa ra các quy tắc, quy chế mang tính dưới luật để thực thi và quản lý, tuy nhiên cần đòi hỏi những phương pháp khẳng định bằng quyền lực, pháp lý cho cá nhân hay tổ chức thực hiện những hoạt động cụ thể.
- Để thực hiện việc cho phép, tiến hành cấp giấy phép hoặc đăng ký, trong quyền này các nhà HC phải xác định những gì pháp luật không cho phép công dân làm và cấp phép cho những hoạt động pháp luật ko cấm.
Về nguyên tắc cấp phép và đăng ký có thể ko khác nhau nhiều, nhưng thủ tục cấp phép đòi hỏi phải cụ thể hơn.
- Chứng thực, công chứng: là hoạt động xác lập bởi cong quyền tình trạng pháp lý-dân sự của công dân hay tổ chức.
- Ra mệnh lệnh (cưỡng chế HC) là phương pháp bảo đảm đối tượng quản lý thực hiện nhiệm vụ pháp lý và chịu xử lý đối với các vi phạm pháp luật. Gồm: phòng ngừa, ngăn chặn, xử phạt, trưng dụng, trưng mua và bắt buộc thực hiện nghĩa vụ.
- Cung cấp các dịch vụ công cho công dânvà tổ chức
- Các hình thức tài trợ.
Thực hiện điều tiết, can thiệp vào đời sống chính trị - kinh tế - XH, các cơ quan HCNN có thể sử dụng một số biện pháp sau:
Biện pháp giáo dục, tuyên truyền để XH công dân hiểu và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của NN.
Biện pháp kinh tế, đó là những hình thức xử lý các tỡnh huống cú liờn quan đến việc thực hiện pháp luật của NN bằng các đùn bẩy KT thưởng phạt.
Biện pháp hành chính đơn phương tức cưỡng bức phải chấp hành trong trường hợp các biện pháp trên không hiệu quả. Mệnh lệnh hành chính trong trường hợp này đũi hỏi các đối tượng bị quản lý phải chấp hành.
Nhóm C. Phương pháp tiến hành các hoạt động cung cấp dịch vụ
Liên hệ thực tiễn: trong thực tiễn, phương pháp tiến hành cung cấp các dịch vụ cho công dân và tổ chức chưa được phổ biến rộng rãi, nó chưa trở thành một nhóm phương pháp quan trọng chủ yếu,nó chỉ bó hẹp trong phạm vi của một số khu vực quản lý nhất định và chất lượng cung cấp này tuy ngày một được nâng cao nhưng còn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của công dân và tổ chức.
Phương pháp tác động theo thẩm quyền ra bên ngoài để thực hiện chức năng của các cơ quan HC, các phương pháp này hiện nay đang tồn tại nhiều bât cập, việc uỷ quyền lập quy tuy được tiến hành lliên tục nhưng chưa thành một hệ thống hoàn chỉnh, còn nhiều sự chồng chéo, các văn bản chưa thống nhất về một vấn đề, hoặc ra các văn bản lập quy chưa kịp thời.
Các hoạt động cấp phép và dăng ký thủ tục còn rườm rà,các cơ quan HC còn có hiện tượng gây khó dễ cho công dân và tổ chức khi họ tiến hành đăng ký.
Phương pháp điều hành nội bộ đã có những tiến bộ rõ rệt, đã đề ra đựoc các chính sách sát thực và hoàn thành được nó, kiểm soát được chặt chẽ các công việc ở cơ quan và đặc biệt là vấn đề kiểm soát cán bộ đã được làm tốt, hạn chế được rất nhiều các hiện tượng tiêu cực từ phía cán bộ, công chức của nền HC.
Những phương tiện cơ bản  thực hiện các chức năng HCNN
- Các chức năng HC được thực hiện thông qua hệ thống các phương tiện khác nhau. Có những phương tiện giống như các tổ chức khác cần để thực hiện các chức năng của tổ chức. Đồng thời có một số phương tiện mang tính chất đặc thù của HCNN.
Những phương tiện cơ bản thực hiện các chức năng HCNN:
1.                Địa vị pháp lý và thẩm quyền hợp pháp, rừ ràng, rành mạch (tổ chức)
2.                Quy chế công vụ làm căn cứ hành động và hành vi đội ngũ công chức (công vụ)
3.                Đội ngũ công chức đủ phẩm chất, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ (công chức)
4.                Công sở và công sản phù hợp, uy nghiêm (công sản)
5.                Định chế ra những quyết định đơn phương để thực thi công vụ (đặc quyền).

PHẦN KHÔNG CÓ TRONG CÂU HỎI
Phân tích các chức năng để vận hành cơ quan HCNN có hiệu quả (Chức năng bên trong, chức năng bên ngoài). Liên hệ thực tế tại cơ quan.
Hoạt động HC NN rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, các hoạt động này có thể phân thành những hoạt động chuyên biệt theo lĩnh vực chuyên môn nhất định để phân công cho các cơ quan, tổ chức có đủ khă năng thực hiện. Việc phân loại hoạt động HC thành những hoạt động chuyên biệt đó chính là chuyên môn hoá hoạt động HC và kết quả của chuyên môn hoá là hình thành các chức năng hành chính.
Chức năng HC là loại hình hoạt động chuyên biệt của hoạt động HC, là sản phẩm của quá trình phân công, chuyên môn hoá lao động trong lĩnh vực thực thi quyền hành pháp NN.
Để một cơ quan HC NN vận hành có hiệu quả thì cơ quan này phải thực hiện hoàn chỉnh hai chức năng bao gồm: chức năng nội bộ bên trong cảu nền HC NN và chức năng bên ngoài.
Chức năng bên trong là một cách tiếp cận để chỉ rõ những hoạt động bên trong các cơ quan HC phải tiến hành. Các chức năng bên trong nhằm:
- Bảo đảm để có một cơ cấu hiệu quả nhất.
- Bảo đảm để HC phải tuân thủ pháp luật.
Chức năng bên trong của HC ở một số tài liệu gọi là chức năng cần thiết để vận hành cơ quan HC hoạt động có hiệu quả. Xem xét chức năng HC NN khi vận hành vào một cơ quan HC công quyền nào đó là sự chi tiết hoá các chức năng HC thành những hoạt động HC thường xuyên ổn định.  
Nghiên cứu các chức năng bên trong hay chức năng để vận hành thông suốt hệ thống các CQHCNN là một trong những chủ đề được các nhà nghiên cứu HC quan tâm. Nghiên cứu chức năng bên trong hệ thống các CQHC, ngoàI việc vận dung những kinh nghiệm điều hành các tổ chức một cách hiệu quả, cần phải dựa vào pháp luật để xem xét  và đánh giá lại các chức năng bên trong của các cơ quan quản lý HCNN.
Các cơ quan HCNN có nhiều chức năng bên trong, một số chức năng bên trong của CQHC cần chú ý là:
1. Chức năng quy hoạch, kế hoạch
Căn cứ vào pháp luật và trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, cơ quan HC bao gồm Chính phủ, các Bộ, các chính quyền địa phương xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, địa phương trong từng giai đoạn cụ thể.
Đây là chức năng quan trọng của các chức năng HC. Chức năng quy hoạch, kế hoạch tập trung vào những nội dung sau:
- Xác lập hệ thống mục tiêu; tốc độ phát triển; cơ cấu và cân đối lớn ; các chính sách, giải pháp để dẫn dắt đất nước phát triển theo định hướng kế hoạch.
- Tiến hành dự báo, dự toán, mô hính hoá, xây dựng chiến lược quy hoạch phát triển; lập các công trình, dự án cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực, kế hoach 5 năm là chính, song có phân ra hàng năm.
- Việc quy hoạch và kế hoạch phải bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và các thành phần kinh tế phù hợp với cơ cấu và cơ chế quản lý K.tế mới ở nước ta.
2. Chức năng tổ chức bộ máy HC.
Chức năng này nhằm xây dựng một cơ cấu tổ chức hợp lý của CQHC, để làm cho cơ quan Hc vận hành thông suốt, xây dựng bộ máy gon, có hiệu quả nhằm xác định các mối quan hệ chủ đạo, quan hệ ngang-dọc, quan hệ phối hợp. quản lý chặt chẽ cường độ, năng xuất của bộ máy, quản lý sự thay đổi của tổ chức.
Chức năng tổ chức bộ máy bao gồm:
- Xây dựng bộ máy
- Chỉ đạo sự vận hành của bộ máy
- Hiệp đồng bên trong và bên ngoài khi triển khai nhiệm vụ.
- Liên kết công việc, liên kết tổ chức và liên kết con người.
3. Chức năng nhân sự:
Đây là chức năng gắn liền với việc sử dụng và phát triển nguồn nhân lực của các cơ quan HC. Đó là sắp xếp cán bộ, công chức theo tiêu chuẩn chức danh; tiêu chuẩn hoá đội ngũ công chức HC, tổ chức hệ thống công việc thích hợp.
Ý nghĩa chức năng này từ xưa đến nay đã quan trọng và từ nay về sau còn quan trọng hơn, vì vậy việc năng cao dân trí, đào tạo nhân tài, sử dụng và bồi dưỡng nhân tài là quốc sách hàng đầu, là nguyên nhân, cội nguồn sự hưng thịnh của một quốc gia. Quản lý con người là tối ưu hoá nguồn nhân lực , đòi hỏi nhiều hoạt động HC cụ thể.
4. Chức năng ra quyết định HC.
Đây là chức năng vừa cần chú ý đến các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài. Đó là hoạt động tập hợp đầy đủ những thông tin; xử lý thông tin , đề ra các phhương án khác nhau; thẩm định hiệu quả từng phương án, ban hành quyết định quản lý HCNN. Xét cho cùng thì quyết định là sản phẩm, là hành vi  quan trọng nhất của công chức lãnh đạo, quản lý. Đó là sự lựa chọn tiên quyền để sẵn sàng thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Những vấn đề về phương pháp ra quyết định, là quá trình quyết định, tổ chức t/hiện quyết định luôn luôn là đối tượng quan tâm của các nhà HC.
5. Chức năng lãnh đạo:
Trong một cơ quan các chức năng khác được thực hiện thông qua sự lãnh đạo hoặc hành vi lãnh đạo của nhà lãnh đạo. Nếu lãnh đạo sai thì hoạt động của cơ quan sẽ trở nên vô nghĩa. Thông qua chức năng lãnh đạo, cấp trên, cấp lãnh đạo đưa ra hướng dẫn cụ thể thúc đẩy nhân viên nội bộ tổ chức kế hoạch chi tiết cho từng hoạt động, tiến độ thực hiện; chỉ dẫn các quy định, hiệu qủa và chất lượng hoạt động, tiến độ thực hiện.
6. Chức năng phối hợp:
Chức năng phối hợp điều hoà các cá nhân, các đơn vị lệ thuộc, thiết lập mối quan hệ đơn giản nhưng hợp lý. Đó là sự chỉ đạo, sự đồng bộ hoạt động theo cấp HC về thời gian; phối hợp giữa các đơn vị khác nhau, xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả.
7. Chức năng Tài chính
Chức năng Tài chính bao gồm nhiều hoạt động cụ thể: xây dựng ngân sách, chú trọng nuôi dưỡng và khai thác nguồn thu, nhất là thuế, sử dụng hiệu quả tiết kiệm; ngân sách được NN cấp đúng chế độ, đúng chủ trương phân cấp, quản lý chặt chẽ công sản, bao gồm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và những vật tư cần thiết khác.
8. Chức năng kiểm soát:
Đó là hoạt động nhằm làm sáng tỏ những kết quả đạt được; sự án chiều hướng vận động của từng bộ phận và toàn hệ thống; phát hiện những sai xót, vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện  hoạt động HC. Chức năng này gắn liền với trách nhiệm cá nhân và tổ chức, là cơ sở để thực thi và điều chỉnh hoạt động công vụ.
Kiểm soát là hoạt động của nhà lãnh đạo nhằm bảo dảm những hoạt động theo đúng mục tiêu chế độ đã đặt ra. Do đó thể hiện tốt chức năng này đòi hỏi phải thiết lập một hệ thống kiểm tra có đủ thẩm quyền, công việc theo dõi, giám sát, kiểm tra có tính toàn diện, liên tục, thuyết phục, công khai và quần chúng và là một biện pháp quan trọng phản ánh trung thực hiện trạng, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của HCNN.
Các phương tiện kiểm soát: Các chính sách, ngân sách, sơ đồ tổ chức, báo cáo, các kế hoạch, kế toán, các thủ tục, kiểm toán.
9. Chức năng báo cáo
Báo cáo là phương tiện để người lãnh đạo kiểm soát quyền hành và trách nhiệm với cấp dưới.
Đây là hoạt động thiết lập các báo cáo định kỳ (tháng, quý, năm) và báo cáo tổng kết dài hạn (2 năm, 5 năm, 10 năm). Trong các bản báo cáo này cần đánh giá thực hiện mục tiêu, số lượng, chất lượng, hiệu quả thực hiện công vụ. Chức năng này đóng vai tro quan trọng giúp người lãnh đạo thẩm định những việc đã làm được, những việc chưa làm được, làm cho phong phú thêm tính lý luận và thực tiến HC, từ đó định ra phương hướng, giải pháp cho những năm tiếp theo.
* Chức năng bên ngoài của các cơ quan HCNN chính là nghiên cứu các chức năng quản lý HCNN, tác động của quyền hành pháp đến đời sống chính trị-kinh tế- văn hoá- xã hội, nhằm làm cho xã hội vận động theo đúng những mục tiêu mà NN đề ra trong từng thời kỳ. Những chức năng này có thể coi là chức năng điều tiết, can thiệp của các cơ quan HC NN đối với xã hội nói chung, đối với công dân và các hoạt động kinh tế của họ. Cụ thể chức năng này bao gồm:
- Nghiên cứu chức năng HC bên ngoài theo tiến trình phát triển, điều này phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và xu thế vận động, phát triển của NN, có thể chỉ ra đựơc chức năng này là sự vận động, thay đổi chức năng quản lý NN của các cơ quan HC NN ở các giai đoạn khác nhau.
Căn cứ vào lịch sử đất nước, của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia, của từng thời kỳ thì có thể tìm thấy các chức năng
- Nghiên cứu chức năng của cơ quan HC từ Trung ương đến chính quyền địa phương các cấp
+ Cấp trung ương (Chính phủ): thì nghiên cứu chức năng tổng quát của cả Chính phủ, sau đó là cá nhân Thủ tướng người đứng đầu cơ quan hành pháp cao nhất của một ngành, lĩnh vực.
+ Các cấp địa phương: tuỳ vào từng quốc gia, từng thời kỳ có sự khác nhau, nhưng nhìn chung là gồm Uỷ ban nhân dân các cấp có chức năng quản lý chung mọi mặt ở địa phương cấp mình, trong uỷ ban có các Sở, Ban, Ngành quản lý từng lĩnh vực, vùng lẻ.
- Chức năng theo từng lĩnh vực Quản lý HCNN như quản lý HCNN về Ktế, quản lý HCNN trên các lĩnh vực y tế, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường, Quản lý HCNN về các vấn đề XH, các vấn đề có liên quan đến tư pháp, tài chính và hàng loạt các vấn đề khác.
Việc nghiên cứu chức năng bên ngoài là sự tác động của các cơ quan Quản lý HCNN đến XH, công dân, tác động đến các hành vi của cá nhân, tổ chức thì việc áp dụng các phương pháp hoạt động (tác động đến công dân và XH) lại mang tính đặc thù riêng của các cơ quan Quản lý hành chính NN, ko có tổ chức nào có chức năng đó.  
* Liên hệ thực tế tại một cơ quan nào đó
* Tài liệu phần 3 tải tại đây.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét