PHẦN 2. THỂ CHẾ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Câu 5. Khái niệm về thể chế và thể chế HCNN.
Có nhiều
cách quan niệm về thể chế hành chính nhà nước. Có thể định nghĩa thể chế hành
chính nhà nước từ những gì cần thiết để các cơ quan hành chính nhà nước hoạt
động có hiệu quả. Theo cách tiếp cận như vậy ta có thể định nghĩa thể chế hành
chính nhà nước như sau:”thể chế hành
chính nhà nước là toàn bộ các yếu tố cấu thành hành chính nhà nước để hành
chính nhà nước hoạt động quản lý nhà nước một cách hiệu quả, đạt được mục tiêu
của quốc gia”.
Các yếu tố đó
là:
+ Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ
trung ương đến cơ sở.
+ Hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước điều chỉnh
sự phát triển kinh tế - xã hội trên mọi phương diện, đảm bảo xã hội phát triển
ổn định, an toàn, bền vững.
+ Hệ thống các văn bản pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền
hạn, thẩm quyền của các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở.
+ Hệ thống các văn bản quy định chế độ công vụ và các quy
chế công chức.
+ Hệ thống các quy định nhằm giải quyết những tranh chấp
hành chính giữa công dân với nền hành chính thông qua khiếu nại, khiếu kiện
hành chính.
+ Hệ thống các thủ tục hành chính nhằm giải quyết các
quan hệ giữa nhà nước với công dân và với các tổ chức xã hội.
Tuy nhiên cũng có thể hiểu thể chế hành chính nhà nước
theo nghĩa hẹp hơn, đó là một hệ thống gồm luật, các văn bản pháp quy dưới luật
tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước, một mặt là thực hiện
chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như cho mọi
tổ chức và cá nhân sống và làm việc theo pháp luật; mặt khác là các quy định về
các mối quan hệ giữa các cơ quan và nội bộ bên trong của các cơ quan hành chính
nhà nước. Như vậy, thể chế hành chính nhà nước bao gồm những quy định của pháp
luật để xây dựng cơ cấu tổ chức và nhân sự trong các cơ quan hành chính nhà
nước và những quy định pháp luật làm cơ sở xây dựng quan hệ cụ thể giữa Nhà
nước với các tổ chức và công dân.
Câu 6. Các yếu tố cấu thành thể chế hành chính nhà nước
- Khái niệm: thể
chế hành chính nhà nước là toàn bộ các yếu tố cấu thành hành chính nhà nước để
hành chính nhà nước hoạt động quản lý nhà nước một cách hiệu quả, đạt được mục
tiêu của quốc gia
- Thể chế HCNN được
cấu thành từ các yếu tố:
+ Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ
trung ương đến cơ sở.
+ Hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước điều chỉnh
sự phát triển kinh tế - xã hội trên mọi phương diện, đảm bảo xã hội phát triển
ổn định, an toàn, bền vững. Đó là thể chế quản lý HCNN trên các lĩnh vực (thể
chế KT, thể chế VH,...)
+ Hệ thống các văn bản pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền
hạn, thẩm quyền của các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở bao gồm: Chính phủ, Thủ tướng CP, Các bộ, các cơ quan ngang bộ thuộc
CP,Chính quyền địa phương các cấp, cũng như các cơ quan quản lý NN được thành
lập theo luật định.
+ Hệ thống các văn bản quy định chế độ công vụ và các quy
chế công chức.
+ Hệ thống các quy định về tài phán HC nhằm giải quyết
những tranh chấp hành chính giữa công dân với nền hành chính thông qua khiếu
kiện về sự vi phạm pháp luật của các cơ quan QLHCNN đối với công dân, đối với
các tổ chức XH.
+ Hệ thống các thủ tục hành chính nhằm giải quyết các
quan hệ giữa nhà nước với công dân và với các tổ chức xã hội. Đó là hệ thống
các thủ tục phức tạp, đòi hỏi phải công khai rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ tiếp
cận.
Câu 7. Vai trò của thể chế hành chính nhà nước
Trong
xã hội bất kỳ ở đâu có những hoạt động nói chung, có cộng đồng người cùng sinh
sống, thì tất yếu sẽ có những quy định chung để điều hoà các hoạt động, các lợi
ích giữ những con người khác nhau sinh sống trong cộng đồng nhằm đạt mục tiêu
chung và thoả mãn lợi ích của từng cá nhân. Nhưng quy định chung để điều chỉnh
hoạt động giữa các cá nhân trong cộng đồng người hoặc trong tổ chức có thể gọi
đó là thể chế.
Thể chế
là những quy định chung của cộng đồng mà những người có liên quan phải tuân thủ
nhằm đảm bảo những lợi ích khác nhau của từng thành viên và lợi ích chung của
cộng đồng. Trong một hệ thống tổ chức thì Thể chế là những quy định về tổ chức
nhằm đảm bảo cho tổ chức hoàn thành với mục tiêu chung.
Với tư cách là chủ thể quản lý xã hội. Để đạt
mục tiêu quản lý của mình, Nhà nước phải đặt ra những quy định nhằm tạo ra
khuôn khổ pháp lý để NN nước quản lý toàn diện xã hội và cho mọi người dân hoạt
động. Hành chính công là hoạt động thực thi quyền hành pháp của NN, đó là hoạt
động chấp hành và điều hành. Thể chế hành chính là tập hợp những văn kiện pháp
luật (gồm Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản pháp quy hành chính) tạo
khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể hành chính NN thực hiện chức năng hành chính
NN đối với mọi mặt của đời sống xã hội và cho mọi tổ chức, cá nhân sống và làm
việc theo pháp luật.
Trong
quản lý xã hội, Thể chế hành chính NN có những vai trò sau:
1. Thể chế hành
chính là cơ sở cho tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính NN.
Một mặt
, các cơ quan thuộc bộ máy hành chính NN được thành lập theo quy định của Hiến
pháp, luật và các văn bản dưới luật. Đó là việc thay đổi cơ cấu tổ chức, sát
nhập, giải thể đều phải đều phải dựa trên cơ sở của thể chế hiện hành. Mặt khác
thể chế hành chính còn quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ
máy hành chính, cơ quan hành chính và cho các chức vụ trong cơ quan hành chính.
Đây chính là cơ sở cho hoạt động của từng công chức, từng cơ quan hành chính và
của toàn hệ thống hành chính.
2. Thể chế hành
chính là cơ sở pháp lý cho các cán bộ, công chức, cơ quan hành chính NN thực
hiện chức năng hành chính NN trên các mặt của đời sống xã hội.
Thể chế
hành chính chứa đựng những văn bản quy phạm pháp luật quy định các nội dung
quản lý của NN đối với từng lĩnh vực cụ thể và các chủ thể hành chính NN thực
hiện quản lý xã hội trên cơ sở các quy định này.
3. Thể chế hành chính là cơ sở xác lập mối quan hệ giữa các chủ thể hành
chính Nhà nước với công dân, tổ chức.
Trong
thể chế HC có các văn bản quy phạm pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của
công dân, tổ chức và trách nhiệm của các chủ thể hành chính nhà nước trong việc
bảo đảm các quyền và nghĩa vụ đó. Ví dụ: công dân có quyền tự do kinh doanh,
thì khi một công nhân hoàn thành hồ sơ đăng ký kinh doanh và nộp cho các cơ
quan NN có thẩm quyền, thì trọng một hạn đinh cơ quan HC NN có thẩm quyền hoặc
cho phép hoặc không cho phép tuỳ theo tính hợp pháp, tính đầy đủ của hồ sơ.
Hoặc Luật có quy định nghĩa vụ nộp thuế của những người có thu nhập cao, thì cơ
quan NN có thẩm quyền có quyền yêu cầu công dân có nghĩa vụ nộp thuế phải nộp
thuế cho NN.
4. Thể chế hành
chính còn là cơ sở cho việc kiểm soát của các cơ quan NN khác và của tổ chức,
công dân đối với hoạt động HC NN.
Trong
thể chế quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức khác, công dân
có phần quy định quyền kiểm soát của các chủ thể này đối với hệ thống HC NN
nhằm đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý của
hoạt động quản lý HC.
5. Thể chế hành
chính Nhà nước là cơ sở cho việc quản lý nguồn nhân lực trong bộ máy hành chính
NN.
Đó
chính là bộ phận thể chế công vụ cấu thành thể chế HC. Thể chế công vụ quy định
việc quản lý công chức trên các mặt như: tuyển dụng, đánh giá, thăng thưởng, kỷ
luật, phát triển cho đến việc chấm dứt nhiệm sở của công chức. Nó xác lập quyền
lợi và nghĩa vụ của công chức NN khi làm việc trong nền công vụ.
- Thể
chế HC còn là cơ sở pháp lý cho việc huy động, khai thác và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực quốc gia của các chủ thể HC NN.
Quyền
sở hữu tài sản quốc gia thuộc về nhân dân mà đại điện là cơ quan quyền lực NN
cao nhất (Quốc hội), nhưng quyền huy động, khai thác và sử dụng các nguồn lực
này vì mục đích công lại là thẩm quyền của bộ máy HC NN đã được xác lập bởi các
văn bản quy phạm pháp luật.
Thể chế
HC có những vai trò quan trọng nêu trên, tuy nhiên hệ thống của thể chế hành
chính nước ta hiện nay có nhiều hạn chế như đã được đánh giá tại Chương trình
tổng thể cải cách HC NN giai đoạn 2001-2010;
Nền HC
NN còn mang nặng dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, chưa
đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế quản lý mới cúng như yêu cầu phục vụ nhân
dân trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao, thể hiện ở:
- Thể
chế hành chính NN quy định chức năng, nhiệm vụ quản lý NN của bộ máy HC trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ
và phù hợp; sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành
mạch;
- Hệ thống
thể chế chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục hành chính
trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp, trật tự, kỷ cương chưa nghiêm;
- Thể
chế quy định về tổ chức đã tạo ra bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều tầng nấc;
phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán; chưa
thông suốt, chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với hoạt động
của các cơ quan HC, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công;
Trong thời gian 2001-2010, phương hướng hoàn
thiện thể chế hành chính NN như sau:
1. Mục tiêu hoàn
thiện thể chế HC NN
1.1.
Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về
tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính.
1.2.
Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản, đề cao trách
nhiệm của từng cơ quan trong qáa trình xây dựng thể chế, phát huy dân chủ, huy
động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản trong quy phạm pháp
luật.
1.3.
Xoá bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà gây phiền
hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo
hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.
1.4. Các cơ quan trong hệ thống hành chính
được xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và có trách nhiệm rõ ràng, chuyển
được một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan NN thực hiện
cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận.
2. Nội dung hoàn
thiện thể chế hành chính NN
2.1.
Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế và tổ chức hoạt động của hệ
thống hành chính NN. Trong 5 năm tới, chú trọng một số thể chế then chốt sau
đây:
- Thể
chế về thị trường vốn và tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động
sản, thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động, thị trường dịch vụ.
- Thể
chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính, trước hết là tổ chức và
hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và
Uỷ ban nhân dân các cấp.
- Thể
chế và quan hệ giữa NN với nhân dân như: thu nhập ý kiến của nhân dân trước khi
quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng, trưng cầu dân ý, xử lý các
hành vi trái pháp luật của cơ quan và cán bộ, công chức NN trong khi thi hành
công vụ; thẩm quyền trách nhiệm của cơ quan hành chính và Toà án trong việc
giải quyết kiếu kiện của nhân dân.
- Thể
chế về thẩm quyền quản lý NN đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp NN
nói riêng; phân biệt rõ quyền chủ sở hữu, quyền quản lý HCNN và quyền tự chủ
k/doanh của doanh nghiệp.
2.2.
Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Rà
soát và hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực, loại bỏ
những quy định pháp luật không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lặp. Phát
huy hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật.
- Tăng
cường năng lực của các cơ quan HC NN ở trung ương và địa phương trong việc xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khắc phục tình trạng luật, pháp
lệnh chờ nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành.
- Để
nâng cao chất lượng và tránh tình trạng thiếu khách quan, cục bộ trong việc xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, cần thiết phải nghiên cứu đổi mới phương thức,
quy trình xây dựng pháp luật từ khâu đầu cho đến khâu Chính phủ xem xét, quyết
định hoặc thông qua để trình Quốc hội.
- Ban hành các quy định bảo đảm sự tham gia có
hiệu quả của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật, tổ chức tốt việc lấy ý
kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, của những người là đối tượng điều
chỉnh của văn bản trước khi ban hành.
- Các
văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng công báo hoặc yết thị, đưa tin trên
các phương tiện thông tin đại chúng ngy sau khi ký ban hành để công dân và các
tổ chức có điều kiện tìm hiểu và thực hiện.
2.3.
Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan NN, của cán bô,
công chức.
- Cung
cấp cho cán bộ, công chức đầy đủ thông tin về chính sách, pháp luật của NN để
vận dụng, giải quyết công việc theo chức trách và thẩm quyền.
- Thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chế độ thông tin công khai cho dân về chủ trương,
chính sách của NN, của chính quyền địa phương định ký trực tiếp gặp gỡ, đối
thoại giải quyết các vấn đề do doanh nghiệp và nhân dân đặt ra.
- Phát
huy hiệu lực của các nhà thiết chế thanh tra, kiểm sát và tài phán để đảm bảo
hiệu lực quản lý NN, giữ gìn kỷ cương XH. Phân định rõ trách nhiệm của các cơ
quan thanh tra và Toà hành chính trong việc giải quyết các kiếu kiện của dân
đối với các cơ quan và cán bộ công chức.
- Mở
rộng dịch vụ tư vấn pháp luật cho nhân dân, cho người nghèo, người thuộc diện
chính sách và đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện cho
các luật sư hoạt động tư vấn có hiệu quả theo pháp luật.
2.4.
Tiếp tục cải cách thủ tục HC.
- Tiếp
tục cải cách thủ tục HC nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả minh bạch và công
bằng trong khi giải quyết công việc HC. Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng
chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân. Mở rộng thủ tục cải
cách HC trong tất cả các lĩnh vực, xoá bỏ kịp thời những quy định không cần
thiết về cấp pháp và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm dịch, giám định.
- Mẫu
hoá thống nhất trong cả nước các loại giấy tờ mà công dân hoặc doanh nghiệp cần
phải làm khi có yêu cầu giải quyết các công việc về giải pháp kinh doanh và đời
sống.
- Ban
hành cơ chế kiểm tra cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết công việc của
dân; xử lý nghiêm người có hành vi sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm, khen
thưởng những người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
- Mở
rộng thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết công việc của cá nhân và
tổ chức ở cơ quan hành chính NN các cấp. Cơ quan hành chính các cấp có trách
nhiệm giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức phải niêm yết công khai, đầy
đủ mọi thủ tục, trình tự, lệ phí, lịch công tác tại trụ sở làm việc.
- Quy
định cụ thể và rõ ràng trách nhiệm cá nhân trong khi thi hành công vụ. Việc xác
định quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ
phải đi liền với việc đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức.
Câu 8. Các yếu tố quyết định (chi phối) thể
chế hành chính nhà nước. (Các yếu tố ảnh hưởng đến thể chế)
Trong xã hội bất kỳ
ở đâu có những hoạt động nói chung, có cộng đồng người cùng sinh sống, thì tất
yếu sẽ có những quy định chung để điều hoà các hoạt động, các lợi ích giữ những
con người khác nhau sinh sống trong cộng đồng nhằm đạt mục tiêu chung và thoả
mãn lợi ích của từng cá nhân. Những quy định chung để điều chỉnh hoạt động giữa
các cá nhân trong cộng đồng người hoặc trong tổ chức có thể gọi đó là thể chế.
Thể chế là những
quy định chung của cộng đồng mà những người có liên quan phải tuân thủ nhằm đảm
bảo những lợi ích khác nhau của từng thành viên và lợi ích chung của cộng đồng.
Trong một hệ thống tổ chức thì Thể chế là những quy định về tổ chức nhằm đảm
bảo cho tổ chức hoàn thành với mục tiêu chung.
Thể chế HCNN có
tính bao quát các mặt chính trị kinh tế, xã hội. Bản thân hệ thống HCNN là một
bộ phận của thể chế HCNN. Xét trên quan điểm triết học thể chế HCNN là một bộ
phận thành tố của kiến trúc thượng tầng. Và như vậy, thể chế HCNN tất yếu chịu
sự chi phối, quyết định của thể chế cơ sở hạ tầng và có mối liên hệ tác động
qua lại đối với các thành tố khác của kiến trúc thượng tầng. Trong điều kiện
Việt Nam xây dựng thể chế HCNN cần quan tâm đến các yếu tố cơ bản:
1. Chế độ chính trị:
Chế độ chính trị quốc gia (tổ chức quản lý NN
và mối quan hệ giữa NN với XH) có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức chính
quyền và thể chế HC NN. Các phương thức tổ chức NN: tập trung dân chủ, phân
quyền, tập quyền, tản quyền cũng có ảnh hưởng lớn đến thể chế HCNN.
Chế độ chính tri quốc gia và quan điểm Đảng
cầm quyền quyết định phương thức tổ chức NN và bản chất của hệ thống pháp luật
quốc gia. Chế độ chính trị do bản chất của NN quyết định, cơ cấu tổ chức của hệ
thống, vấn đề phân bố quản lý NN ảnh hưởng trực tiếp và chỉ đạo thể chế của nền
HCNN. Do đó việc xây dựng thể chế HCNN phải thể hiện đầy đủ vai trò của các yếu
tố cấu thành hệ thống chính trị.
Nhà nước CHXHCN
Việt Nam là tổ chức duy nhất trong hệ thống chính trị có quyền ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật từ Hiến pháp đến các quy chế cụ thể để thể hiện ý chí và
thực hiện quyền lực của nhân dân. Nhà nước ta là NN pháp quyền nên pháp luật
được đề cao, mọi cơ quan NN, công dân hay tổ chức đều phải tuân thủ pháp luật
một cách nghiêm túc. Thể chế nền HCNN ta mang tính chất và nội dung chính trị
của nền dânchủ XH chủ nghĩa, đảm bảo quyền con người và công dân.
2. Nền Kinh tế và vai trò của
NN trong quản lý Kinh tế.
Trong thể chế NN
thì thể chế Kinh tế chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Điều đó xuất phát từ vai
trò của nền Kinh tế trong một quốc gia, quyết định sức mạnh kinh tế và chi phối
sức mạnh chính trị và là tiền đề của sức mạnh quân sự của mỗi quốc gia. Chính
vì vậy, để quản lý nền Kinh tế NN cần xây dựng một hệ thống thể chế HC về Kinh
tế tạo điều kiện khuyến kích hỗ trợ cao ổn định và bền vững. Mỗi chế độ chính
trị lại găn liền với một NN và dựa trên một kết cấu hạ tầng kinh tế xác định.
Hiện nay chế độ Kinh
tế hay mức phát triển của mỗi quốc gia khác nhau do đó thể chế HC NN cũng rất
khác nhau.
Ở nước ta trước đây
nền Kinh tế chỉ có 2 thành phần cơ bản thuộc sở hữu NN và tập thể, điều này
được thể chế hoá thành phần pháp luật và thể chế quản lý Kinh tế. Nhưng ngày
nay NN đã chuyển sang Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN
nên thể chế nền HC NN thay đổi theo một cách tương ứng.
3. Truyền thống văn hoá, phong
tục, tập quán.
Theo quan điểm XH
học văn hoá là yếu tố có tính bền vững. Nó tồn tại và tác động vào đời sống XH
một cách tinh vi và sâu xa. Sự hiện diện cua nó nhiều khi như là một yếu tố tự
nhiên và vô thức trong hành vi và cộng đồng. Các giá trị văn hoá truyền thống
có thể là cơ sở để xây dựng thể chế HC NN có hiệu quả phù hợp với thời đại.
Nhiều nền văn minh của lịch sử đã được xây dựng từ các yếu tố văn hoá truyền
thống là sâu sắc lâu dài, tiềm ẩn và rất cơ bản và sự tuân thủ trung thành
truyền thống văn hoá dân tộc đã gây ảnh hưởng đến đặc điểm HC của mỗi nước. Vì
vậy việc tiếp thu có chọn lọc những yếu tố phù hợp trong văn hoá truyền thống,
kết hợp với đặc trưng thời đại để xây dựng một thể chế HClà việc rất quan
trọng.
Ở Việt Nam có rất
nhiều truyền thống tốt đẹp đã được áp dụng vào thể chế HC như tinh thần yêu
nước, y chí độc lập, lòng nhân ái. Nhưng bên cạnh đó cũng còn nhiều nét truyền
thống lạc hậu ảnh hưởng đến thể chế HC NNnhư bảo thủ, bản vị, tư tưởng địa
phương.
4. Ảnh hưởng của văn hóa bên
ngoài (Môi trường Quốc tế) .
Trong thời đại ngày
nay hợp tác quốc tế đã trở thành xu hướng tất yếu để tồn tại và phát triển. Các
quốc gia không thể không mở cửa quan hệ với bên ngoài. Sự giao lưu hợp tác quốc
tế ngày càng mở rộng trên các lĩnh vực đời sống thì kéo theo các quốc gia càng
phải tăng cường sự điều chỉnh để thích ứng. Một trong những sự điều chỉnh ấy là
điều chỉnh thể chế kinh tế đối ngoại. Sự phát triển của các q/hệ quốc tế trên
nhiều lĩnh vực như kiểm tra, chính trị, văn hoá giữa các nước đã ảnh hưởng đến
thể chế HC mỗi quốc gia tiếp nhận một cách có chọn lọc để xây dựng và hoàn
thiện thể chế của mình.
Ở nước ta trong
thời gian gần đây có sự chuyển biến trước đây chịu ảnh hưởng của mô hình kế
hoạch hoá tập trung, ngày nay đã có thay đổi lơn hơn, chúng ta tiếp nhận những
yếu tố tiên tiến của văn hoá và thể chế HC nước ngoài để làm phong phú và tạo
nền tảng khoa học cho hoạt động quản lý ở Việt Nam.
(Tự Nêu VD.)
Câu 9. Những nội dung (có tính đặc trưng) cơ bản của thể
chế HCNN Việt nam (9 nội dung)
Trong xã hội bất kỳ
ở đâu có những hoạt động nói chung, có cộng đồng người cùng sinh sống, thì tất
yếu sẽ có những quy định chung để điều hoà các hoạt động, các lợi ích giữa những
con người khác nhau sinh sống trong cộng đồng nhằm đạt mục tiêu chung và thoả
mãn lợi ích của từng cá nhân. Những quy định chung để điều chỉnh hoạt động giữa
các cá nhân trong cộng đồng người hoặc trong tổ chức có thể gọi đó là thể chế.
Thể chế là những
quy định chung của cộng đồng mà những người có liên quan phải tuân thủ nhằm đảm
bảo những lợi ích khác nhau của từng thành viên và lợi ích chung của cộng đồng.
Trong một hệ thống tổ chức thì Thể chế là những quy định về tổ chức nhằm đảm
bảo cho tổ chức hoàn thành với mục tiêu chung.
Thể chế hành chính là toàn bộ những văn kiện pháp luật
(gồm Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản pháp quy hành chính) tạo khuôn
khổ pháp lý cho các chủ thể hành chính NN thực hiện chức năng hành chính NN đối
với mọi mặt của đời sống xã hội và cho mọi tổ chức, cá nhân sống và làm việc
theo pháp luật.
Thể chế HCNN của nước ta là yếu tố cấu thành tổng thể hệ
thống thể chế NN. Do đặc trưng chính trị-Kinh tế-XH của Việt Nam thể chế HCNN
của ta mang những đặc trưng cơ bản của bản chất NN Việt Nam.
1. Thể chế HC bao hàm quyền lập
quy và quyền HCNN.
Quyền HC được xem như là yếu tố cơ bản quan trọng nhất
của thể chế HCNN, là một cấu thành của quyền hành pháp, được hiểu là hành pháp
trong hoạt động quản lý.
Ở nước ta, quyền HC của bộ máy HCNN được tập trung ở
Chính phủ, cơ quan thống nhất việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá, XH, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của NN. Bảo đảm hiệu lực hoạt
động của các cơ quan HCNN từ Trung ương đến cơ sở.
Chính phủ và cấp chính quyền địa phương có chức năng,
nhiệm vụ thực thi quyền và các cấp có chức năng, nhiệm vụ thực thi quyền hành
pháp bằng hoạt động lập quy, ra những
quyết định về thể chế nền HC, quản lý các mặt hoạt động XH, trên cơ sở thi hành
luật và nghị quyết của Quốc hội, và quản lý điều hành XH theo thể chế vĩ mô đã
xác định.
2. Thể chế HCNN xác định quản
lý của các cơ quan HCNN trên các lĩnh vực.
Quản lý NN trên các lĩnh vực không chỉ là sự can thiệp
trực tiếp của NN vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp cụ thể mà
còn tạo ra khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng của mọi thành phần
kinh tế, mọi công dân, mọi tổ chức XH hoạt động bình đẳng trong hành lang pháp
luật đó. Thể chế HCNN xác lập cách thức để các cơ quan HCNN tiến hành các hoạt
động thực thi quyền hành pháp, QLNN trên khuôn khổ pháp luật NN quy định. Căn
cứ vào đặc điểm, tính chất của các lĩnh vực quản lý, thể chế HC có thể được
phân thành 3 nhóm lớn: Thể chế HC Kinh tế, thể chế HC về văn hoá-XH, Thể chế
HC-chính trị (nội chính).
3. Thế chế HCNN để quản lý HC Kinh
tế.
QLHC Kinh tế là một trong những nội dung quản lý quan
trọng nhất của cơ quan HCNN.
QLNN về Kinh tế nhằm tạo ra những tiền đề căn bản để giải
phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh và làm ăn hợp pháp, làm giàu cho chính
mình và cho XH; tạo ra những bước phát triển Kinh tế một cách ổn định và vững
chắc, nâng cao đời sống của nhân dân toàn XH. Đồng thời, QLNN về Kinh tế tạo
điều kiện cho nền Kinh tế thị trường ở nước ta phát triển lành mạnh theo hướng
XHCN.
Các loại văn bản pháp luật của NN ban hành trên lĩnh vực Kinh
tế từ luật đến nghị định, nghị quyết, quyết định là cơ sở cho mọi thành phần Kinh
tế cùng hoạt động. Trên cơ sở các Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp NN, Luật
khuyến kích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài (Thể chế về Kinh tế),
Chính phủ đã ban hành một loạt văn bản pháp quy hành chính để quản lý Kinh tế
điều tiết, can thiệp vào hoạt động của các chủ thể Kinh tế công và tư (thể chế
HCNN nhằm thực thi quyền hành pháp QLNN về Kinh tế).
Thể chế HCNN quản lý về Kinh tế tập trung vào 3 nội dung
chủ yếu:
- Hệ thống văn bản pháp quy về các mặt hoạt động kinh tế
trong nước và quan hệ đối ngoại.
- Chiến lược, kế hoạch phát triển có tính định hướng,
chính sách, tạo môi trường và hành lang kinh doanh thuận lợi và có trật tự;
hướng dẫn, kiểm tra điều tiết sản xuất, kinh doanh theo đúng pháp luật.
- Thể chế mang tính ngăn ngừa, trọng tài, xử phạt đối với
các hoạt động bất hợp pháp.
NN sử dụng thể chế HCNN để quản lý hoạt động Kinh tế và
tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển Kinh tế hàng hoá có kế hoạch, bảo đảm
tái sản xuất nền Kinh tế quốc dân, nhằm mục đích vì lợi ích chung của toàn XH,
tập thể người lao động và chính bản thân họ. Đồng thời, thông qua các công cụ
vĩ mô để quản lý Kinh tế, tạo ra những cơ hội để sử dụng có hiệu quả vốn, sức
lao động, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân.
4. Thể chế HCNN để QLNN về tài
chính tiền tệ:
NN ta tổ chức hệ thống tài chính theo cấp và mỗi cấp đó
đều có ngân sách. NN có những chính sách, pháp luật để điều hành ngân sách và
lưu thông tiền tệ, nhằm bảo đảm cho Kinh tế XH phát triển.
Thể chế HCNN để QLNN tài chính tiền tệ tập trung vào các
vấn đề cơ bản sau:
- Quản lý và điều hành tài sản quốc gia và tài nguyên đất
nước, thực hiện chuyển dịch cơ cấu nhằm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
- Quản lý và điều hành thuế, nguồn thu tài chính quan
trọng nhất đại diện cho lợi ích XH và quyền lợi của giai cấp.
- Quản lý, điều hành chặt chẽ các nguồn thu chủ yếu của
ngân sách, hạn chế lãng phí, chống tham nhũng trong đó chú ý những văn bản có
liên quan về việc chi trong nước chi trả nợ, chi đầu tư phát triển.
- Quản lý và điều hành các doanh nghiệp của các thành
phần Kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp NN.
- Quản lý tập trung thống nhất ngân sách NN, đồng thời
thực hiện sự phân cấp quản lý ngân sách như luật ngân sách đã quy định.
- Quản lý NN về tiền tệ, tín dụng và ngân sách. Thể chế
của nền HC quốc gia về quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng được
thể hiện thống nhất trong Pháp lệnh Ngân hàng của NN ta (ngày 25/5/1990). Ngân
hàng NN Việt Nam là cơ quan của Chính phủ, có chức năng QLNN về hoạt động tiền
tệ, tín dụng và ngân hàng trong cả nước, nhằm ổn định giá trị đồng tiền và là
cơ quan duy nhất của NN ta phát hành tiền tệ. Ngân hàng là mắt xích quan trọng
nhất trong quá trình thực hiện quản lý vĩ mô của nền Kinh tế.
QLNN về tiền tệ, tín dụng ngân hàng thể hiện qua các nội
dung sau:
+ NN độc quyền phát hành tiền, điều hoà lưu thông tiền tệ
trong cả nước.
+ NN quản lý điều hành chặt chẽ tổng mức tín dụng phù hợp
trong nền Kinh tế quốc dân.
+ NN quản lý và điều hành chính sách lãi suất.
+ NN quản lý và điều hành ngoại tệ, quản lý kinh doanh
vàng bạc.
+ Phân định rõ QLNN về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng và
kinh doanh tín dụng, dịch vụ ngân hàng của hệ thống ngân hàng.
- Kiểm tra tài chính đối với huy động, phân phối, sử dụng
tài nguyên, tài sản, tiền vốn, thực thi pháp luật và kỷ luật tài chính
5. Thể chế HCNN quản lý và sử
dụng lực lượng lao động XH.
Dân số Viêt Nam tăng nhanh, hàng nămchung ta có khoảng
1,2-1,3 triệu người gia nhập vào thị trường lao động (chỉ kể những người được
pháp lý quy định là ở độ tuổi lao động, từ 16 tuổi trở lên). Nhu cầu lao động
và khả năng sử dụng lực lượng lao động của nước ta đang có nhiều vấn đề bất cập
chưa thể giải quyết. Quản lý và sử dụng lực lượng lao động ở nước ta là một
trong những vấn đề mang tính quốc sách của NN.
Luật Lao động là một dạng thể chế NN quy định cụ thể một
số thể chế HCNN cần thiết để quản lý, sử dụng và phát triển lực lượng lao động.
Bộ Luật Lao động là nền tảng và cơ sở pháp lý để NN quản
lý và sử dụng lực lượng lao động của toàn XH một cách hợp lý; đảm bảo cho mọi
người dân có sức lao động, có khả năng lao động tham gia vào mọi hoạt động sản
xuất, kinh doanh dịch vụ không bị pháp luật cấm, tạo nguồn thu nhập cho chính
bản thân mình, góp phần nâng cao mức sống của cá nhân, của cộng đồng; góp phần
giải quyết triệt để tiềm năng lao động to lớn của nước ta phù hợp với cơ chế Kinh
tế mới, con người lao động tự do làm ăn, từ đó tạo việc làm trong khuôn khổ
pháp luật không cấm. Đó cũng là cơ sở pháp lý cao nhất để giúp chúng ta hình
thành thị trường lao động một cách hoàn chỉnh, hợp lý trong nền Kinh tế thị
trường định hướng XH chủ nghĩa.
6. Thể chế HCNN để QLNN về văn
hoá, giáo dục, y tế.
a). Thể chế HCNN quản lý các vấn đề về văn hoá
Văn hoá là một bộ phận cấu thành của một chế độ XH. Nó
phán ánh những hệ tư tưởng, những thành tựu của chế độ XH đó. Văn hoá của một
chế có mặt và biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống: văn hoá trong chính
trị, văn hoá trong kinh tế, văn hoá trong QLNN.
QLNN về văn hoá nhằm tạo cho các hoạt động vân hoá đi
đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và là một trong những công cụ
đắc lực góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của XH.
b). Thể chế HC NN quản lý các vấn đề về giáo dục
Giáo dục, đào tạo là cơ sở phát triển nguồn nhân lực, là
con đường cơ bản để phát huy nguồn lực con người, con người sáng tạo ra XH làm
cho XH phát triển đến những đỉnh cao của nền văn minh, sự phồn thịnh. Trong quá
trình đó, con người cũng tự hoàn thiện mình, trở thành con người có trí tuệ cao
và cách sống văn minh. Nguồn lực con người là nhân tố QĐ đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, đồng thời nó cũng là mục tiêu của sự phát triển đó. đặc biệt
đối với nước ta, khi các nguồn lực tài chính và vật chất khác con hạn hẹp thì
nguồn lực con người là nguồn lực quý báu nhất để phát triển đất nước.
Trí tuệ của con người là kết quả của sự giáo dục, đào tạo
và tự rèn luyện lâu dài. Vì vậy, có thể nói, giáo dục, đào tạo là mối quan tâm
hàng đầu của mỗi quốc gia, nhằm đào tạo ra một nguồn nhân lực có trí tuệ cao, có
tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, đáp ứng ở mức cao nhất những yêu cầu
phát triển kinh tế - XH của đất nước.
Giáo dục,đào tạo là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực,
là con đường cơ bản để phát huy nguồn lực con người. Nếu như trước đây, sự
thiếu thốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là nguyên nhân chủ yếu ngăn cản tốc
độ phát triển Kinh tế, thì trong thời đại ngày nay phần quan trọng của tăng
trưởng gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động. Kỷ nguyên phát triển mới
coi đầu tư phát triển nguồn lực là quan trọng hơn các loại đầu tư khác. Các
quốc gia trên thế giới đều có sự thay đổi trong chiến lược phát triển của mình theo
hướng chú trọng nhiều hơn đến giáo dục đào tạo.
Hầu hết các quốc gia đều coi giáo dục, đào tạo là một
lĩnh vực công cộng do NN đảm nhận là chủ yếu vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, giáo dục tạo ra nguồn lực quyết định cho sự
phát triển của đất nước trong tương lai, nó gắn liền với mục tiêu, chiến lược
phát triển, cơ cấu Kinh tế của đất nước. Vì vậy, nếu NN không có nnhững biện
pháp thích hợp để định hướng công tác giáo dục- đào tạo thì sẽ dãn đến một cơ
cấu đào tạo theo ngành nghề bất hợp lý, làm chênh lệnh hướng phát triển của đất
nước so với cácc mục tiêu chiến lược đã đề ra.
Thư hai, giáo dục, đào tạo là sự nghiệp công cộng, vì nó
mang lợi ích cho toàn XH, cả những người trực tiếp hưởng sự giáo dục, đào tọ
đó, cũng như những người không trực tiếp được hưởng. Chỉ có NN đị diện cho lợi
ích toàn XH mới có thể đứng ra chịu trách nhiệm về sự nghiệp công cộng này.
Thư ba, để cho các gia đình và cá nhân tự lo toan về giáo
dục, đào tạo cho mình thì sẽ xảy ra tình trạng có nhiều người có năng lực nhưng
không đủ tiền để đi học. Do đó, XH sẽ bị tổn thất to lớn do không tận dụng được
trí tuệ của những người này. Nói cách khác, nền Kinh tế Thị trường luôn tạo ra
sự bất bình đẳng trong việc cung cấp giáo dục cho mọi người. Vì vây, để tạo ra
sự công bằng trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, NN phải đứng ra cung cấp loại
dịch vụ này cho XH đến một mức nhất định nào đó.
Để QLNN các vấn đề liên quan đến
giáo dục, nhiều loại thể chế HC NN cấn được ban hành, trong đó cần chú ý:
- Luật giáo dục nói chung và các đạo
luật cụ thể trên từng lĩnh vực như: phổ cập, chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
- Những thể chế quy định về hệ thống các cơ quan QLNN về
giáo dục.
- Các thể chế liên quan đến việc thành lập cơ sở.
- Hệ thống thể chế quy định chương trình, nội dung đào
tạo chuẩn.
- Hệ thống thể chế về các vấn đề liên quan đến đội ngũ
giảng viên.
- Hệ thống thể chế liên quan đến sử dụng ngân sách NN cho
việc phát triển hệ thống giáo dục.
c). Thể chế HC và các ngành liên quan đến y tế
Y tế là một ngành ứng dụng y học vào việc phòng chữa và bảo
vệ sức khoẻ cho con người. Đầu tư cho y tế chính là đầu tư cho sự phát triển
nguồn vốn con người. Vì vậy, mỗi quốc gia trên thế giới đều coi y tế là một bộ
phận không thể thiếu được trong cơ cấu của nền Kinh tế quốc dân.
Sản phẩm của ngành y tế là dịch vụ chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ con người. Sự khác biệt giữa thị trường cung cấp các loại hàng hoá thông
thường và thị trường y tế thể hiện ở những đặc điểm sau:
-Trên thị trường hàng hoá thông thường luôn có người bán
hàng, những người này cạnh tranh với nhau, tìm cách để cải tiến sản phẩm, hạ
giá bán và thu hút khách hàng về phía mình. Thị trường y tế chỉ bo gồm một số
ít bệnh viện. Số lượng người bệnh thường đông hơn nhiều so với sự đáp ứng của
các bệnh viện, đặc biệt là trong những trường hợp cấp cứu, bệnh nhân ít khi
được lựa chọn bệnh viện nào. Vì vậy, sự cạnh tranh giữa các bệnh viện có phần
bị hạn chế.
- Nếu trên thị trường hàng hoá thông thường, các hãng đều
cố gắng để tối đa hoá lợi nhuận của mình, trên thị trường y tế, hầu hết các
bệnh viện không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Mục tiêu của bệnh viện này
không phải là tăng tối đa lợi nhuận thu được, mà là mức tối đa chất lượng phục
vụ.
- Các hàng hoá thông thường là các hàng hoá mang tính
chất cá nhân, nghĩa là việc tiêu dùng các hàng hoá đó đem lại lợi ích riêng cho
cá nhân người mua hoặc một nhóm nhỏ cá nhân. Trong lĩnh vực y tế , nhiều loại
dịch vụ y tế đem lại lợi ích không chỉ cho cá nhân những người đựoc hưởng dịch
vụ đó mà cho cả một cộng đồng rộng lớn. Chẳng hạn việc thanh toán bệnh đậu mùa sẽ
đem lại lợi ích to lớn cho hàng tỷ nạn nhân trong tương lai.
- Trên thị trường hàng hoá thông thường, mọi người bán hạ
giá sản phẩm của mình sẽ có thể thu hút nhiều khách hàng hơn. Song trên thị
trường y tế, nhiều khi không phải giá cả thấp hơn, mà là điều người tiêu dùng
quan tâm hơn là chất lượng cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên dịch vụ y tế thường không
dễ dàng so sánh được như các loại hàng hoá thông thường khác. Do đó, người bệnh
khó có thể so sánh cách khám và chữa bệnh của bệnh viện nào hay bác sĩ nào tốt hơn.
- Người bệnh thường khó đánh giá được những thông tin mà
họ nhận được trên thị trường y tế. Và họ chỉ có thể dựa vào quyết định của bác
sỹ về bệnh tật của mình, về loại thuốc cần mua.
- Đối với những hàng hoá thông thường khác, người tiêu
dùng có thể tuỳ vào thu nhập của mình mà lựa chọn. Trong lĩnh vực y tế, nhiều
trường hợp khó mà lựa chọn theo ý mình. Ví dụ: đối với một căn bệnh giải phẫu,
thì ai cũng phải phẫu thuật cả, không phụ thuộc vào vấn dề thu nhập.
Tất cả những khác
biệt nói trên của thị trường y tế so với thị trường hàng hoá tiêu dùng thông
thường khác cho thấy, việc quản lý thị trường y tế có những đặc trưng riêng so
với quản lý các lĩnh vực sản xuất và cung ứng dịch vụ thông thường khác. Do đó
đòi hỏi sự can thiệp chủ yếu của NN trong lĩnh vực này. Và NN phải có hình thức
quản lý thích hợp để quản lý tốt các hoạt động cung cấp dịch vụ y tế.
Một số vấn đề về thể chế HC để QLNN, các hoạt động y tế
cần quan tâm là:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động cung cấp
dịch vụ y tế và các hoạt động có liên quan.
- NN có chính sách để phát triển y tế công, y tế cộng
đồng thông qua các công trình bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
- Đầu tư cho y tế từ ngân sách NN và huy động các loại
nguồn tài trợ.
- Xây dựng hệ thống các cơ quan QLNN về chăm sóc sức khoẻ
nhân dân.
- Các thể chế liên quan đến chính sách phát triển nguồn
nhânn lực phục vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
7. Thể chế HC giải quyết khiếu
nại, tố cáo công dân, thiết lập tài phán HC giải quyết khiếu kiện.
- Đây là nội dung quan trọng của việc xác định sự bình
đẳng giữa NN và công dân trong việc thực thi các văn bản pháp luật và bảo đảm
cho công dân trong việc thực thi các văn bản pháp luật và đảm bảo cho công dân
được quyền thông tin đầy đủ về các hoạt động quản lý bộ máy NN, đảm bảo quyền
giám sát và góp ý của công dân đối với CQNN.
Nội dung văn bản của thể chế HC có liên quan đến vấn đề
giải quyết các kiếu tố, tố cáo của công dân đã được ghi nhận trong các văn bản
cụ thể - pháp lệnh giải quyết. Pháp lệnh quy định cụ thể những hoạt động cần
thiết để giải quyết vấn đề này, đảm bảo cho người kiếu tố, khiếu nại, tố cáo,
cũng như những người bị kiếu tố, khiếu nại, tố cáo được giải quyết theo đúng
khuôn khổ pháp luật.
Toà án HC được xem như là yếu tố cần thiết và quan trọng
để xử lý theo thể thức tố tụng các kiếu kiện của dân đối với các quyết định của
cơ quan HCNN. Là một công cụ cần thiết để đảm bảo sự bình đẳng giữa “quan” và
“dân” trong các vụ kiện và không để cho các cơ quan HCNN tự xử các kiếu kiện
của mình.
Toà án HC là một nội dung quan trọng trong thể chế của
nền HC, là “quan toà” để phán xét, phán xét những hoạt động không tuân thủ thể
chế HC đã quy định, không tuân thủ văn bản pháp luật.
8. Thế chế HCNN để QLNN về an
ninh, an toàn, trật tự trị an và quốc phòng.
Vấn đề an ninh quốc gia, trật tự an toàn XH là một vấn đề
cốt lõi nhằm bảo đảm sự tồn vong của quốc gia. Đây là vấn đề chứa đựng bên
trong sự phức tạp.
QLNNvề an ninh, an toàn nhằm đảm bảo sự ổn định và an
toàn cho toàn bộ hệ thống chính trị, kinh tế, Xh của nước ta phát triển, vị lợi
ích của dân tộc của nhân dân. Đây là một vấn đề liên quan tới mọi cá nhân, mọi
tổ chức(công hay tư). Một văn bản quản lý HCNN, một chủ trương, chính sách ban
hành đều có những ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề an ninh an toàn XH. Chính vì
vậy, ngay khi văn bản NN đươc ban hành cũng đã phải chứa đựng bên trong nó nội
hàm nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự và an toàn XH. Những chính sách Kinh
tế mới được ban hành, đặc biệt là nền kinh tế thị trường với sự tham gia của
các thành phần kinh tế, nhưng nếu không quan tâm đến khía cạnh an toàn, an ninh
và trật tự XH thì XH nói chung và các cá nhân trong XH phải chịu. Thực tế của
NN ta trong giai đoạn chuyển đổi ban đầu đã bộc lộ những hạn chế đó. Do đó,
việc ban hành các văn bản QLNN, các chủ trương,chính sách đều phải luôn quan
tâm đến vấn đề an ninh , an toàn XH.
QLNN về vấn đề an ninh quốc gia nhằm bảo đảm sự ổn định
chính trị, bảo đảm cho công cuộc đổi mới, phát triển và chống mọi âm mưu từ bên
ngoài nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Nội dung
QLNN tập trung vào:
- Bảo vệ chính trị nội bộ
- Quản lý an ninh thông tin
- Quản lý các hoạt động tôn giáo
QLNN về an toàn,
tật tự xã hội là một nhiệm vụ mang tính thường xuyên của các cơ quan quyền lực
NN. Hoạt động này được quy định trong nhiều loại văn hoá QLNN (các luật, nghị
định, thông tư). Quản lý an toàn, trật tự XH được thể hiện thông qua:
- Chống các tội
phạm Kinh tế (buôn lậu, tham ô, lãng phí, tham những, làm hàng giả, buôn bán
hàng cấm…).
- Chống các tội
phạm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
- Chống các tệ nạn
XH, những thói hư tật xấu (tiêm chích, văn hoá độc hại, mãi dâm, cờ bạc… là
những nguyên nhân của tội phạm hình sự).
- Quản lý, cải tạo
đối tượng làm phương hại đến trật tự, an toàn XH dưới nhiều hình thức.
- Quản lý những hoạt
động kinh doanh có tính chất ảnh hưởng đến an toàn, trật tự XH như: nghỉ trọ,
khắc dấu, sao chụp, in ấn, sử dụng chất nổ, gây độc hại, các trung tâm thẩm mỹ…
- Quản lý con người
thông qua những hình thức như: đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, khai báo tạm trú, tạm
vắng, cấp giấy chứng minh thư, hộ chiếu.
Tất cả những hoạt
động liên quan đến an ninh đều được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật.
9. Thể chế HCNN để quản lý vấn
đề dân tộc
Việt Nam là đất
nước của 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Các dân tộc đã và đang sát cánh với
nhau để bảo vệ và xây dựng đất nươcứ Việt Nam XHCN. Các dân tộc Việt Nam có
tiếng nói, ngôn ngữ riêng, nhưng tất cả các dân tộc đang nói tiểng Kinh (ngôn
ngữ phổ thông) làm ngôn ngữ giao tiếp. NN ta tôn trọng quyền dùng chữ viết,
tiếng nói riêng của dân tộc.
a. Nét đặc trưng
của các dân tộc Việt Nam là:
- Có chung lịch sử
của lịch sử phát triển đất nước và các dân tộc đều gắn bó với tiến trình phát
triển của đất nước Việt Nam.
- Các dân tộc Việt
Nam sống rải rác trên nhiều vùng khác nhau do phong tục, tập quán, các dân tộc
ít người thường tập trung ở các vùng biên giới, hải đảo, có nhiều tiềm năng
phát triển.
- Các dân tộc Việt
Nam sống xen kẽ nhau. Qua nhiều phong trào di chuyển, phân bố lại với dân cư,
nhiều người Kinh đang sinh sống với đồng bào ít người tạo nên một tạo nên một
cộng đồng dân cư đa dân tộc.
- Do điều kiện tự
nhiên, phong tục tập quán và mức độ phát triển kinh tế của dân tộc không đồng
đều. Sự không đồng đếu xảy ra trên nhiều khía cạnh khác nhau như: kinh tế, văn
hoá, XH.
- Nền văn hoá Việt
Nam là nền văn hoá đậm đà bản sắc của các dân tộc Việt Nam. Mỗi dân tộc đều có
những nét văn hoá riêng và chính điều đó đã làm cho nền văn hoá Việt Nam nói
chung trở nên phong phú và đa dạng.
NN ta rất quan đến
sự phát triển đồng đều của các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam. Văn
kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH đã viết: “T.hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để dân tộc phát triển,
đi lên con đường văn minh, tiến bộ gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hoá, ngôn
ngữ, tập quán và tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân
tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộ. Các chính sách Kinh tế-XH phải phù hợp
với đặc thù từng vùng và các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số”.
Trong văn bản pháp
luật của Việt Nam, quản lý vấn đề dân tộc trở thành một trong những nội dung
được chú ý ngay trong văn bản pháp luật NN cao nhất là Hiến pháp, cũng như
trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội, Chính phủ. Theo Luật tổ chức Q.hội quy định
sự có mặt của Hội đồng dân tộc trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội quy định thể
hiện cơ quan quyền lực NN cao nhất rất quan tâm đến vấn đề dân tộc.
Vấn đề dân tộc là
một trong những vấn đề lớn và quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới. Nếu không
quản lý NN tốt các vấn đề dân tộc, nhưng mâu thuẫn giữa các dân tộc, do có
những nét đặc trưng riêng về phát triển Kinh tế-XH, cũng như phong tuc, tập
quán và đặc biệt là sự lợi dụng của các kẻ thù địch, có thểm làm cho quốc gia
mất ổn định do vấn đề dân tộc (nội chiến). Điều đó đã và đang xảy ra trên nhiều
địa điểm của thế giới. Các quốc gia thường rất quan tâm để tạo ra một môi
trường phát triển bình đẳng giữa các dân tộc có đông dân số hơn. Nhiều chương
trình, mục tiêu quốc gia nhằm giúp đỡ, hỗ trợ các đồng bào dân tộc ít người đã
được đề ra ngay từ đầu NN Việt Nam ra đời.
Một bộ phận luật về
vấn đề dân tộc là rất cần thiết để thực hiện QLNN các vấn đề dân tộc. Đó cũng
là văn bản thể chế quan trọng nhất cho hoạt động QLNN.
b. Thể chế NN quản
lý vấn đề tôn giáo
Quốc gia cũng có
các loại tôn giáo khác nhau tồn tại và phát triển. Nhiều nước trước đây ít quan
tâm đến vấn đề tôn giáo cũng đang thay đổi cách nhìn nhận này.
Việt nam là quốc
gia có số lượng dân cư theo các tôn giáo không lớn. Một số đông không theo tôn
giáo nào. Hiện có 6 tôn giáo lớn ở Việt Nam, đó là: Phật giáo , Công giáo, Tin
lành, Hồi giáo, Hoà hảo và Cao đài.
Tôn giáo với các tư
tưởng khác nhau của tôn giáo đã tác động đến sự phát triển của đất nước. Do đó,
các nước đều có những cách thức khác nhau để quản lý các vấn đề tôn giáo. Trong
giai đoạn đế quốc, phong kiến, giai cấp thống trị đã lợi dụng vấn đề tôn giáo
để chia rẽ các dân tộc, chia rẽ đồng bào và đồng bào lương (không có tôn giáo),
nhằm dễ bề cai trị. NN Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh, đã kêu gọi “Tự do tín
ngưỡng , giáo - lương đoàn kết”.
NN quy định cụ thể
các vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo, nhằm tạo điều kiện cho tất cả các
giáo dân được tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ pháp luật của NN, nhằm tốt đời đẹp đạo.
Ban tôn giáo của
Chính phủ được thành lập theo nghị định số 37/CP ngày 4/6/1993. Đây là một cơ
quan thuộc Chính phủ nhằm giúp Chính phủ trên một số vấn đề liên quan đến QLNN
về tôn giáo. Đồng thời, với sự tham gia của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, mà các
tổ chức tôn giáo là thành viên, các hoạt động tôn giáo ở nước ta vừa bảo đảm tự
do tín ngưỡng, vừa tôn trọng pháp luật NN đề ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét