MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ GỢI Ý TRẢ LỜI ÔN TẬP TRIẾT HỌC
Câu 5: Phân tích định nghĩa Vật chất của lênin và ý nghĩa phương pháp luận của nó ?
1. Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa duy vật,nó chứa đựng bên trong nội dung thế giới khách quan và phương pháp luận ,vừa mang tính khái quát vừa mang tính sâu sắc.
2. Phạm trù vật chất được hiểu rất khác nhau,phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thực tiễn và nhận thức của mỗi con người trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử;trong các học thuyết duy vật trước Mác,vật chất được coi là thực thể,mang tính bất biến của mỗi sự vật,hiện tượng; các nhà triết học đã đồng nhất vật chất với ngững vật cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại. Đây chính là nguyên nhân để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng chống lại chủ nghĩa duy vật.
Theo Lênin “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta khép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Vật chất theo định nghĩa của Lênin là phạm trù triết học ,nó khác với các khái niệm của khoa học tự nhiên về các đối tượng và sự vật cụ thể; phạm trù vật chất là pạm trù rộng nhất trong hệ thống các phạm trù, nên không thể định nghĩa như những khái niệm đơn thuần, quy về một khái niệm rộng hơn và chỉ ra những đặc điểm khác biệt.
Thuộc tính duy nhất của vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, đó là tất cả những gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, với cảm giác và đem lại cho chúng ta trong cảm giác; thuộc tính này thể hiện lập trình của chủ nghĩa duy vật,vật chất có trước, ý thức có sau,vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức,ý thức chỉ là phản ánh thực tại khách quan và con người có thể nhận được thế giới vật chất.
Định nghĩa của Lênin về vật chất đã bao quát cả 2 mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng ,nó khắc phục được tính siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất của triết học trước Mác.
3.tính thống nhất vật chất của thế giới :các nhà triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ”bản chất của thế giới là vật chất,thế giới thống nhất ở tính vật chất”;điều này thể hiên ở những điểm cơ bản sau:
-chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất ;thế giới vật chất tồn tại khách quan,có trước và độc lập với ý thức con người.
-mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ mật thiết và thống nhất nhau,biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất,có nguồn gốc từ vật chất và cùng chịu sự tác động, chi phối của các quy luật khách quan,phổ biến của thế giới vật chất.
-thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không tự sinh ra và cũng không tự mất đi, mà chính là sự chuyển hóa cho nhau, là nguồn gốc,nguyên nhân và kết quả của nhau.
4. Vật chất tồn tại tronh sự vận động:
Vận động bao hàm toàn bộ những sự biến đổi nói chung, là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính vốn có và không thể tách rời của vật chất;điều này cũng có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình, không thể có vật chất mà không vận động và ngược lại.
Theo quan điểm duy vật biện chứng ,vận động của vật chất là sự tự thân vận động,là sự tác động qua lại giũa các yếu tố, các mặt,các quá trình đang tồn tại bên trong sự vật hiện tượng ; quan niệm này hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động ,cho rằng vận động có nguồn gốc và chịu sự tác động từ bên ngoài chứ không phải xuất phát từ bên trong của sự vật hiện tượng.
Dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học,Anghen đã phân loại các hình thức vận động cơ bản của vật chất,bao gồm: vận động cơ giới(sự di chuyển vị trí của các vật thể),vận động vật lí (sự vận động của các hạt cơ bản),vận động hóa học(các quá trình phân giải,hóa hợp các chất),vận động sinh học(sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường),vận động xã hội(là quá trình biến đổi, thay thế các hình thái kinh tế-xã hội)
Mỗi dạng vật chất cụ thể bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản xác định ; dạng vận động sau cao hơn dạng vận động trước.Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động có liên hệ, tác động, chuyển hóa qua lại, và đây cũng là sự thể hiện sự phát triển của thế giới vật chất từ hình thức thấp đến hình thức cao.
Đứng im là trạng thái vận động trong cân bằng,chỉ mang tính tương đối;nếu không có đứng im tương đối thì không có sự phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật hiện tượng phong phú đa dạng.
5.Vật chất tồn tại gắn liền với khong gian và thời gian:
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất,là những thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể;không gian biểu hiện những thuộc tính như cùng tồn tại và tách biệt(vị trí), có kết cấu và quảng tính (độ dài ngắn, cao thấp);thời gian bao gồm những thuộc tính như độ lâu của sự biến đổi , trình tự xuất hiện và mất đi của sự vật hiện tượng, các trạng thái khác nhau của thế giới vật chất.
Vật chất vận động không thể ở đâu ngoài không gian và thời gian ; sự thống nhất nhất ở không gian và thời gian với vận động của vật chất hoàn toàn đối lập với quang điểm siêu hình khi tách không giang, thời gian với sự vận động của vật chất.
Tuy đều là hình thức tồn tại của vật chất, nhưng giữa không gian và thời gian có sự khác nhau cơ bản, đó là không gian có 3 chiều:chiều dài,chiều rộng và chiều cao; còn thời gian chỉ có một chiều đi từ quá khứ đến tương lai.
6.Ý nghĩa và phương pháp luận:
Định nghĩa cũa Lênin về vật chất góp phần đấu tranh chống lại các quang điểm duy tâm về vật chất, cả duy tâm chủ nghĩa và duy tâm khách quan; đấu tranh chống xuyên tạc học thuyết Mác, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Định nghĩa của lênin về vật chất không chỉ là sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên, mà còn có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức khoa học ,giúpcho nhận thức khoa học tránh được các cuộc khủng hoảng, dẫn dắt khoa học tiếp tục phát triển đi lên.
Định nghĩa của lênin về vật chất giúp ta giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học;khái niệm vật chất của lênin bao quát cả dạng vật chất trong xã hội,tạo cơ sở lí luận để khắc phụcquan điểm duy tâm trong đời sống xã hội của con người.
Thấy được mối quan hệ hữu cơ qua các quy luật vận động của các vật chất,giúp chúng ta tránh được khuynh hướng sai lầm khi nhận định,đánh giá một sự vật hiện tượng mang tính cứng nhắc,không thấy được sự vận động và phát triển của chúng,không thấy được mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác,nói chung cần có quan điểm toàn diện,lịch sử và cụ thể trong giải quyết công việc cụ thể.
Câu 6:phát biểu định nghĩa Vật chất của lênin. Phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa pham trù vật chất với những tồn tại vật chất cụ thể?
1.phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa duy vật,nó chứa đựng bên trong nội dung thế giới khách quan và phương pháp luận, vừa mang tính khái quát vừa mang tính sâu sắc.
2.phạm trù vật chất được hiểu rất khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thực tiển và nhận thức của con người trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử,trong các học thuyết duy vật trước Mác,vật chất được coi là thực thể.
GIỐNG CÂU 5 TỪ PHẦN 1 ĐẾN PHẦN 5 NHỎ
6.giữa phạm trù vật chất và những tồn tại vật chất cụ thể có những điểm giống nhau và khác nhau cơ bản như sau:
Vật chất là phạm trù triết học ,có tính khái quát cao;còn những vật chất cụ thể là những khái niệm thuộc các ngành khoa học dùng đề chỉ những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất.
Đối với vật chất con người không thể sờ mó được,trong khi đó những dạng tồn tại cụ thể của vật chất thì con người có thể cảm nhận qua các giác quan của mình
CÂU 7:phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức? ý nghĩa của vấn đề đó trong việc nâng cao vai trò của ý thức trong hoạt động thực tiển?
1.khái niệm: ý thức là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phản ánh thế giới khách quan vaò bộ não con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
có 2.nguồn gốc của ý thức:
a. nguồn gốc tự nhiên:
Dựa trên những thành tựu khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là một thuộc tính của vật chất,nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc của con người,ý thức là chức năng bộ óc người, hoạt động phụ thuộc vào bộ óc người, nếu bộ óc người bị tổn thương thì hoạt động của ý thức sẽ không bình thường và bị hỗn loạn
Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài từ vượn biến thành người, là một tổ chức sống đặc biệt với hàng tỉ tế bào,các tế bào này có liên quan nhau và với các giác quan khác tạo thành vô số những quan hệ thu nhận, điều khiển hoạt động cơ thể con người trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản xạ không điều kiện và các phản xạ có điều kiện.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài thì cũng không có ý thức,phản ánh là thuộc tế chung của mọi đối tượng của vật chất,là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất cho thấy nếu thế giới vật chất có tổ chức càng phức tạp thì năng lực phản ánh càng cao; trong giới tự nhiên vô sinh chỉ phản ánh vật lí, hóa học ,mang tính thụ động, chưa có sự lựa chọn; trong giới tự nhiên hữu sinh phản ánh phát triển lên một trình độ cao hơn đó là phản ánh sinh học, đã bắt đầu có sự lựa chọn, mang tính định hướng, được thể hiện thông qua các hình thức như sự kích thích ở thực vật, sự phản xạ ở động vật.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý chí chỉ nảy sinh ở giai đoạn cao nhất của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người, ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.Tóm lại bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b.nguồn gốc xã hội:
Những tiền đề và điều kiện tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề và nguồn gốc xã hội; ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Nhờ lao động con người tác động vào thế giới khách quan, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng cụ thể tác động vào bộ óc người, đây chính là hoạt động cải taọ thế giới khách quan của con người.
Trong quá trình lao động, con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tư tưởng cho nhau, từ đó ra đời ngôn ngữ, do vậy ngôn ngữ là do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành, ngờ vào hệ thống những tín hiệu vật chất của ngôn ngữ mà ý thức tồn tại và được thể hiện, con người có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực khách quan và tác động vào hiện thực khách quan để phục vụ nhu cầu của con người.
Như vậy nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức chính là lao động, là thực tiễn xã hội, hay nói cách khác ý thức lẩn phẩm xã hội, là hiện tượng xã hội.
3.Bản chất của ý thức:
Các nhà duy vật trước Mác thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức phản ánh tồn tại khách quan ấy, tuy nhiên do ảnh hưởng bởi quan điểm siêu hình nên chỉ coi ý thức là sự phản ánh thụ động ,đơn giản và mang tính máy móc ,các nhà triết học duy tâm thì cường điệu tính năng động , sáng tạo của ý thức dến mức coi ý thức sản sinh ra vật chất, chứ không phải là sự phản ánh vật chất.
Khác với các quan điểm trên ,chủ nghĩa duy vật biện chứng xem ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người một cách năng động và sáng tạo; tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ: ý thức không phải là bản sao giản đơn,thụ động và máy móc mà ý thức có thể tạo ra những tri thức mới trên cơ sở những cái đã có, có thể tiên đoán, dự báo tương lai thông qua nhận biết các quy luật khách quan, có thể tạo ra những giả thiết, lí thuyết khoa học trừu tượng và có tính khái quát cao…
4. kết cấu của ý thức:
Xét theo chiều ngang; ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm các yếu tố khác nhau như: tri thức ,xúc cảm,tình cảm và ý chí, trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất.
Trí thức là phương thức tồn tại của ý thức, tri thức của con người về sự vật hiện tượng càng nhiều thì ý thức về sự vật hiện tượng càng sâu sắc(ví dụ minh họa), tri thức có thể là cảm giác dưới dạng tri giác, cảm giác và biểu tượng và cũng có thể là tri thức lí tính như những khái niệm, phán đoán và suy luận, việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản nhất, quan trọng nhất của ý thức giúp chúng ta tránh được những quan điểm giản đơn, coi ý thức như là những yếu tố tình cảm, niềm tin, đó cũng chính la bệnh chủ quan duy ý chí, không xuất phát từ thực tế khách quan để nhận thức và vận dụng các quy luật vào thực tiễn đời sống xã hội một cách phù hợp, ý thức không có tri thức chỉ là niềm tin mù quáng, ngược lại tri thức không biến thành tình cảm, niềm tin và ý chí thì tự nó không có vai trò gì trong hiện thực.
Xét theo chiều dọc: ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức và vô thức ,trong đó, tự ý thức là ý thức về hành vi, tình cảm tư tưởng và động cơ, lợi ích và địa vị của chính bản thân con người trong mối quan hệ với ý thức thế giới khach quan, là yếu tố quan trọng của ý thức. tiềm thức là những tri thức mà con người có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, kĩ năng nằm trong tầng sâu của ý thức, khi cần thiết những tri thức ấy quay trở về phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người. Vô thức là iện tượng tâm lí điều khiển những hoạt động của con người xảy ra bên ngoài phạm vi của ý thức hoặc không có sự chỉ đạo trực tiếp của ý thức.
5.Vai trò của ý thức: khi khẳng định vai trò quyết định củavật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất.
Tính độc lập tương đối: ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với vật chất, có thể là thúc đẩy hoặc kiềm hãm quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. (liên hệ thực tế: cần tránh quan điểm duy vật bình thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động).
Tính dự đoán và sáng tạo :vai trò tích cực của ý thức không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay hay thay đổi thế giới vật chất, mà là tù sự nhận thức thế giới con người có thể dự báo sự vận động và phát triển trong tương lai, qua đó hình thành mục đích , phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình.( liên hệ thực tế; phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, đồng thời lấy thực tiễn khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình, cần tránh bệnh duy ý chí).
CÂU 8:phân tích bản chất ý thức.Vai trò của tri thức khoa học trong hoạt động thực tiển?(TRẢ LỜI NHƯ CÂU 7)
CÂU 9:Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?Ý nghĩa của vấn đề đó?
Vật chất là gì? Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa duy vật, nó chứa đựng bên trong nội dung thế giới quan và phương pháp luận, vừa mang tính khái quát vừa mang tính sâu sắc.
2.phạm trù vật chất được hiểu rất khác nhau,phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thực tiễn và nhận thức của mỗi con người trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử;trong các học thuyết duy vật trước Mác,vật chất được coi là thực thể,mang tính bất biến của mỗi sự vật,hiện tượng; các nhà triết học đã đồng nhất vật chất với ngững vật cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại.Đây chính là nguyên nhân để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng chống lại chủ nghĩa duy vật.
Theo Lênin “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta khép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Vật chất theo định nghĩa của Lênin là phạm trù triết học ,nó khác với các khái niệm của khoa học tự nhiên về các đối tượng và sự vật cụ thể; phạm trù vật chất là pạm trù rộng nhất trong hệ thống các phạm trù, nên không thể định nghĩa như những khái niệm đơn thuần, quy về một khái niệm rộng hơn và chỉ ra những đặc điểm khác biệt.
Thuộc tính duy nhất của vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, đó là tất cả những gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, với cảm giác và đem lại cho chúng ta trong cảm giác; thuộc tính này thể hiện lập trình của chủ nghĩa duy vật,vật chất có trước, ý thức có sau,vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức,ý thức chỉ là phản ánh thực tại khách quan và con người có thể nhận được thế giới vật chất.
Định nghĩa của Lênin về vật chất đã bao quát cả 2 mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng ,nó khắc phục được tính siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất của triết học trước Mác.
2.ý thức là gì? Ý thức là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
a. nguồn gốc tự nhiên:
Dựa trên những thành tựu khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là một thuộc tính của vật chất,nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc của con người,ý thức là chức năng bộ óc người, hoạt động phụ thuộc vào bộ óc người, nếu bộ óc người bị tổn thương thì hoạt động của ý thức sẽ không bình thường và bị hỗn loạn
Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài từ vượn biến thành người, là một tổ chức sống đặc biệt với hàng tỉ tế bào,các tế bào này có liên quan nhau và với các giác quan khác tạo thành vô số những quan hệ thu nhận, điều khiển hoạt động cơ thể con người trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản xạ không điều kiện và các phản xạ có điều kiện.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài thì cũng không có ý thức,phản ánh là thuộc tế chung của mọi đối tượng của vật chất,là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất cho thấy nếu thế giới vật chất có tổ chức càng phức tạp thì năng lực phản ánh càng cao; trong giới tự nhiên vô sinh chỉ phản ánh vật lí ,hóa học ,mang tính thụ động, chưa có sự lựa chọn; trong giới tự nhiên hữu sinh phản ánh phát triển lên một trình độ cao hơn đó là phản ánh sinh học, đã bắt đầu có sự lựa chọn, mang tính định hướng, được thể hiện thông qua các hình thức như sự kích thích ở thực vật, sự phản xạ ở động vật.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý chí chỉ nảy sinh ở giai đoạn cao nhất của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người, ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.Tóm lại bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b.nguồn gốc xã hội:
Những tiền đề và điều kiện tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề và nguồn gốc xã hội; ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Nhờ lao động con người tác động vào thế giới khách quan, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng cụ thể tác động vào bộ óc người, đây chính là hoạt động cải taọ thế giới khách quan của con người.
Trong quá trình lao động, con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tư tưởng cho nhau, từ đó ra đời ngôn ngữ, do vậy ngôn ngữ là do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành, ngờ vào hệ thống những tín hiệu vật chất của ngôn ngữ mà ý thức tồn tại và được thể hiện, con người có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực khách quan và tác động vào hiện thực khách quan để phục vụ nhu cầu của con người.
Như vậy nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức chính là lao động, là thực tiễn xã hội, hay nói cách khác ý thức lẩn phẩm xã hội, là hiện tượng xã hội.
3.Bản chất của ý thức:
Các nhà duy vật trước Mác thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức phản ánh tồn tại khách quan ấy, tuy nhiên do ảnh hưởng bởi quan điểm siêu hình nên chỉ coi ý thức là sự phản ánh thụ động ,đơn giản và mang tính máy móc ,các nhà triết học duy tâm thì cường điệu tính năng động , sáng tạo của ý thức dến mức coi ý thức sản sinh ra vật chất, chứ không phải là sự phản ánh vật chất.
Khác với các quan điểm trên ,chủ nghĩa duy vật biện chứng xem ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người một cách năng động và sáng tạo; tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ: ý thức không phải là bản sao giản đơn,thụ động và máy móc mà ý thức có thể tạo ra những tri thức mới trên cơ sở những cái đã có, có thể tiên đoán, dự báo tương lai thông qua nhận biết các quy luật khách quan, có thể tạo ra những giả thiết, lí thuyết khoa học trừu tượng và có tính khái quát cao…
3.mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
a.vật chất quyết định ý thức: từ định nghĩa vật chất của Lênin cho ta thấy vật chất là thực tại khach quan được đem lại cho con người trong cảm giác, và do đó vật chất là tính thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học, là nguồn gốc khách quan của ý thức,tồn tại bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người có thể nhận biết được hay chưa nhận biết được.
khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác chúng ta khép lại ,chụp lại, phản ánh Lenin muốn nhấn mạnh rằng con người có thể nhận biết được thế giới vật chất; như vậy định nghĩa của Lenin đã bác bỏ thuyết không thể biết đồng thời cũng khắc phục được những khiếm khuyết trong những quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.
b.Tính độc lập tương đối: ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với vật chất, có thể là thúc đẩy hoặc kiềm hãm quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. (liên hệ thực tế: cần tránh quan điểm duy vật bình thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động).
Tính dự đoán và sáng tạo :vai trò tích cực của ý thức không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay hay thay đổi thế giới vật chất, mà là tù sự nhận thức thế giới con người có thể dự báo sự vận động và phát triển trong tương lai, qua đó hình thành mục đích , phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình.( liên hệ thực tế; phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, đồng thời lấy thực tiễn khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình, cần tránh bệnh duy ý chí).
Sự tác động của ý thức đối với vật chất được thông qua hoạt động của con người( liên hệ :cần nâng cao nhận thức của con người về thế giới vật chất)
CÂU 10: phân tích nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí ấy?
1.Quan điểm siêu hình về thế giới; xem sự vật hiện tượng trên thế giới tồn tại tác rời nhau, giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc và chuyển hóa cho nhau, nếu có chỉ là những liên hệ ngẫu nhiên, hời hợt bên ngoài (ví dụ như: tự nhiên-xã hội, vô cơ-hữu cơ); phương pháp siêu hình không có khả năng phát hiện ra cái chung, cái bản chất và quy luật của sự vận động và phát triển, nguyên nhân là do trình độ khoa học tự nhiên thời bấy giờ còn hạn chế.
Quan điểm duy tâm tôn giáo về thế giới: cố gắng đi tìm cơ sở của sự liên hệ ,sự tác động qua lại của sự vật hiện tượng ở các lực lượng siêu tự nhiên, ở ý niệm tuyệt đối (Heghen) hay ở ý thức, ở cảm giác con người.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng thì khẳng định rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng chính là mối liên hệ phổ biến và coi đây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật.
2.mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan, thể hiện ở chỗ các sự vật hiện tượng tuy đa dạng về hình thức,nhưng tồn tại trong thể thống nhất của thế giới vật chất, tác động nhau ràng buộc nhau, quy định và chuyển hóa cho nhau.
Mối liên hệ phổ biến chẳng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên,xã hội và tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố ,các quá trình của mọi sự vật hiện tượng (trong tự nhiên: giữa đọng thực vật trong xã hội ,giữa cá nhân tập đoàn người,các quốc qia; trong tư duy: giữa các hình thức các giai đoạn nhận thức).
Mối liên hệ phổ biến mang tính đa dạng,bao gồm mối liên hệ bên trong và mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của sự vật, hiện tượng, nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận đọng và phát triển của sự vật hiện tượng, mối liên hệ bên ngoài với các sự vật hiện tượng khác, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên, trong đó phép biện chứng duy vật tập trung ngiên cứu các mối quan hệ chung, mang tính phổ biến nhất trong sự vận động của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
3.ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
Nghiên cứu nguyên lí này cho phép thừa nhận tính khách quan của tiến trình biện chứng của thế giới, củng số cơ sở lí luận cho việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Nó định hướng cho quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn một cách toàn diện, khách quan,lịch sử, cụ thể, khắc phục những sai lầm của tư duy như thiếu khách quan, phiến diện và duy ý chí khi đánh giá một sự vật hiên tượng cụ thể.
CÂU 11:phân tích cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử, quan điểm cụ thể?
Quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể đều dựa trên nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của thế giới vật chất.Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng là mối liên hệ phổ biến và coi dây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật.
.mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan, thể hiện ở chỗ các sự vật hiện tượng tuy đa dạng về hình thức,nhưng tồn tại trong thể thống nhất của thế giới vật chất, tác động nhau ràng buộc nhau, quy định và chuyển hóa cho nhau.
Mối liên hệ phổ biến chẳng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên,xã hội và tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố ,các quá trình của mọi sự vật hiện tượng (trong tự nhiên: giữa đọng thực vật trong xã hội ,giữa cá nhân tập đoàn người,các quốc qia; trong tư duy: giữa các hình thức các giai đoạn nhận thức).
Mối liên hệ phổ biến mang tính đa dạng,bao gồm mối liên hệ bên trong và mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của sự vật, hiện tượng, nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận đọng và phát triển của sự vật hiện tượng, mối liên hệ bên ngoài với các sự vật hiện tượng khác, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên, trong đó phép biện chứng duy vật tập trung ngiên cứu các mối quan hệ chung, mang tính phổ biến nhất trong sự vận động của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi xem xét đánh giá một sự vật hiện tượng phải đặt chúng trong mối quan hệ với các sự vật hiện tượng khác, phải xem xét tất cả các mặt. các yếu tố các khâu trug gian, gián tiếp của chúng, tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là xem xét cào bằng, tràn lan mà phải thấy được từng mối liên hệ, từng mặt từng yếu tố trong tổng thể của chúng, vai trò vị trí của từng mối liên hệ…có như thế ta mới nắm được bản chất của sự vật. Và vì vậy quan điểm toàn diện bản thân nó bao hàm cả quân điểm lịch sử, cụ thể.
Chú ý kết hợp quan điểm toàn diện với xác định trọng tâm, trọng điểm trong chỉ đạo và điều hành, tạo ra động lực cho sự vận động và phát triển.
CÂU12: phân tích nội dung nguyên lí của sự phát triển và ý nghĩa thực tiễn của nó?
1.quan điểm siêu hình về thế giới: tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật hiện tượng, phủ nhận sự phát triển; nếu có nói đến sự phát triển cũng chỉ là quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp, chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng, là sự tuần hoàn, sự lặp lại chứ không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của cái mới và nguồn gốc của chúng nằm bên ngoài sự vật hiện tượng.
Quan điểm duy tâm tôn giáo về thế giới: thừa nhận thế giới vận động và phát triển nhưng bị chi phối bởi lực lượng bên ngoài, của năng lực siêu tự nhiên, của ý niệm tuyệt đối.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng thì khẳng định ‘phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp ,từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn” theo quan điểm đó phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động.
2. Vận động bao hàm toàn bộ những sự biến đổi nói chung, là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính vốn có và không thể tách rời của vật chất;điều này cũng có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình, không thể có vật chất mà không vận động và ngược lại.
Theo quan điểm duy vật biện chứng ,vận động của vật chất là sự tự thân vận động,là sự tác động qua lại giũa các yếu tố, các mặt,các quá trình đang tồn tại bên trong sự vật hiện tượng ; quan niệm này hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động ,cho rằng vận động có nguồn gốc và chịu sự tác động từ bên ngoài chứ không phải xuất phát từ bên trong của sự vật hiện tượng.
Dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học,Anghen đã phân loại các hình thức vận động cơ bản của vật chất,bao gồm: vận động cơ giới(sự di chuyển vị trí của các vật thể),vận động vật lí (sự vận động của các hạt cơ bản),vận động hóa học(các quá trình phân giải,hóa hợp các chất),vận động sinh học(sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường),vận động xã hội(là quá trình biến đổi, thay thế các hình thái kinh tế-xã hội)
Mỗi dạng vật chất cụ thể bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản xác định ; dạng vận động sau cao hơn dạng vận động trước.Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động có liên hệ, tác động, chuyển hóa qua lại, và đây cũng là sự thể hiện sự phát triển của thế giới vật chất từ hình thức thấp đến hình thức cao.
Đứng im là trạng thái vận động trong cân bằng,chỉ mang tính tương đối;nếu không có đứng im tương đối thì không có sự phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật hiện tượng phong phú đa dạng.
3.khái niệm phát triển không bao quát mọi sự vận đọng nói chung nó chỉ khái quát xu hướng chung của vận động, xu hướng vận động đi lên, cái mới thay thế cái cũ.
Trong giới vô cơ, sự phát triển biểu hiện dưới hình thức biến đổi của các yếu tố làm xuất hiện những hợp chất phức tạp (nguyên tử với phân tử tạo nên hợp chất mới), trong sinh vật sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi trước sự biến đổi phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện không ngừng quá trình trao đổi chất, trong đời sống xã hội, sự phát triển thể hiện ở sự thay thế nhau ngày càng cao hơn các phương thức sản xuất xã hội, trong tư duy, thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ và đúng đắn hơn về hiện thực tự nhiên và xã hội.
Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển thừa nhận tính khách quan của sự phát triển, và cho rằng nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật hiện tượng,do mâu thuẫn các mặt bên trong sự vật quy định, quá trình phát triển thể hiện sự quanh co và phức tạp, trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối, là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn đến thay đối về chất.
Quan điểm duy vật biện chứng của sự phát triển thừa nhận tính phổ biến của sự phát triển, và cho rằng sự phát triển diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực từ thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy, từ hiện thực khách quan đến những khái niệm ,những phạm trù phản ánh hiện thực ấy…
4.ý nghĩa thực tiễn của nguyên lí về sự phát triển:
Bản chất khách quan của quá trình vận động và phát triển đòi hỏi chúng ta trong quá trình xem xét sự vật hiện tượng cần phải có quan điểm phát triển, phải đặt chúng trong sự vận động phát triển,phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi,chuyển hóa và khuynh hướng phát triển trong tương của chúng, từ đó có biện pháp thích hợp.
Sự phát triển của sự vật hiện tượng trong thực tế là quá trình biến chứng đầy những mâu thuẫn, do vậy trong qua trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình như là một hiện tượng phổ biến,phải đi tìm nguyên nhân bên trong của sự vật hiện tượng,của tiến trình vận động, thiếu quan điểm khoa học này người ta dễ bi quan dao động khi tiến trình vận động tạm thời gặp khó khăn,trắc trở, chống tư tưởng bảo thủ,trì trệ và định kiến.
CÂU 13: phân tích nội dung “quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập” ,ý nghĩa của nó đối với quan điểm vừa hợp tác vừa đấu tranh trong giai đoạn hiện nay?
Quy luật thống nhát và đấu tranh giữa các mặt đối lập, còn gọi là quy luật mâu thuẫn, là hạt nhân của phép biện chứng,nó vạch ra nguồn gốc bên trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng
1.khái niệm:
a.Đối lập,mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính ,những khuynh hướng,biến đổi trái ngược nhau,tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên,xã hội và tư duy; chính những mặt đối lập này nằm trong sự liên hệ tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
b.Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này làm tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia; chúng luôn tác động qua lại và đấu tranh lẫn nhau theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
2. Nội dung quy luật: trong mỗi sự vật hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới.
3. phân tích nội dung quy luật:
a. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và mang tính phổ biến, là nguồn gốc của sự vận động và phát triển :
những nhà triết học theo quan điểm siêu hình phủ nhận mâu thuẫn bên trong của sự vật hiện tượng, chỉ thừa nhận có sự đối kháng, sự xung đột bên ngoài giữa các sự vật hiện tượng với nhau, nhưng không cho đó là có tính quy luật.
Phép biện nhứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong, mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa các mặt ,các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau, những mặt đối lập nhau nhưng ràng buộc nhau nên nó tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn là hiện tượng phổ biến, mâu thuẫn tồn tại khách quan trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người; tồn tại phổ biến chẳng những ở mọi sự vật hiện tượng mà còn phổ biến ở mọi sự vận động và phát triển của chúng, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành.
b.Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
khái niệm ‘thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là 2 mặt đối lập nhau, ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại và phát triển. (ví dụ: đồng hóa và dị hóa, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa).
Khái niệm” thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn còn đồng nghĩa với khái niệm “đồng nhất’, đó là sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau trong tất cả các hiện tượng, các quá trình của tự nhiên ,xã hội và tư duy,song “đồng nhất “còn có ý nghĩa khác, đó là sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập; và như vậy sự “đồng nhất “ là không tách rời với sự khác nhau và đối lập,( ví dụ liên hệ: một vật vừa là nó vừa không phải là nó, quan điểm này hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình, phiến diện, xem sự vật mang tính đồng nhất thuần túy khong có đối lập, không có sự chuyển hóa.
Trong một mâu thuẫn ,sự thống nhất của các mặt đối lập không thể tách rời sự đấu tranh bài trừ nhau, phủ định nhau giữa chúng, hình thức đấu tranh được thể hiện trong thế giới vật chất là rất đa dạng, từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp (ví dụ: trong thế giới tự nhiên chỉ là những tác động ảnh hưởng lẫn nhau, trong xã hội đó là những xung đột gay gắt, quyết liệt bằng bạo lực cách mạng mới có thể giải quyết căn bản các mâu thuẫn).
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn với những đặc điểm riêng của nó, khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được thể hiện ở sự khác nhau của 2 mặt có khuynh hướng trái ngược nhau, trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau đó biến thành sự đối lập, khi 2 mặt đối lập xung đột nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết; kết quả là sự thống nhất giữa 2 mặt đối lập cũ bị phá hủy, sự thống nhất của 2 mặt đối lập mới được hình thành cùng với mâu thuẫn mới.
Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng, còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ỗn định dẫn đến sự chuyễn hóa về chất của các sự vật hiện tượng, làm cho vật chất luôn tồn tại và phát triển.
3.Các loại mâu thuẫn: mâu thuẫn trong tự nhiên ,xã hội và tư duy tồn tại rất đa dạng, tính đa dạng được quy định bởi đặc điểm của các mặt đối lập, diều kiện thực hiện sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập, bởi trình độ tổ chức của hệ thống mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập, người ta phân loại thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài, trong đó, mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hương đối lập của cùng một sự vật hiện tượng, mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ với sự vật hiện tượng khác, (ví dụ; đồng hóa-dị hóa: bên trong; cơ thể-môi trường: bên ngoài); cách phân loại này chỉ mang tính tương đối, các mâu thuẫn tác động lẫn nhau và mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết định trực tiếp đến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng (ví dụ:chính sách đối nội-đối ngoại).
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tòn tại và phát triển của toàn bộ sự vật ,hiện tượng, người ta phân thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật hiện tượng, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật hiện tượng; mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật ,nó quy định sự vận động phát triển một mặt nào đó của sự vật (liên hệ: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa).
Căn cứ vào vai trò mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu, mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong 1 giai đoạn phát triển nhất định của sự vật hiện tượng, giải quyết nó tạo điều kiện giải quyết các mâu thuẫn thứ yếu, phân biệt các mâu thuẫn chủ yếu với mâu thuẫn thứ yếu chỉ mang tinh tương đối, trong cùng 1 sự vật trong điều kiện này là mâu thuẫn thứ yếu, trong điều kiện khác là mâu thuẫn chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập trong xã hội, người ta phân chia thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng, mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau(ví dụ) ,mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích nhưng mang tính cục bộ, tạm thời (ví dụ: mâu thuẫn trong các bộ phận công nhân, giữa thành thị-nông thôn). Phân biệt được các loại mâu thuẫn trên sẽ góp phần xác định chính xác phương pháp giải quyết phù hợp: bằng bạo lực cách mạng hay bằng giáo dục thuyết phục.
4.ý nghĩa phương pháp luận:
Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, yêu cầu này đồi hỏi chúng ta phải biết phân tích các mặt đối lập của mâu thuẫn, nắm được bản chất của sự vật, khuynh hướng vận đọng và phát triển của chúng.
Hoạt động thực tiễn nhằm biến đối sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó, muốn vậy phải xác định đúng trạnh thái chín muồi của mâu thuẫn, tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn; không nên giải quyết mâu thuẫn 1 cách vội vàng khi chưa đủ điều kiện.
Mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con đường đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau,tùy loại mâu thuẫn mà có phương pháp giải quyết cụ thể.
CÂU 14: Phân tích nội dung của quy luật:”từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại”, ý nghĩa phương pháp luân của quy luật này trong hoạt động thực tiễn?
1.khái niệm:
a.Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, phân biệt sự vật này với sự vật khác (ví dụ :cách mạng vô sản và cách mạng tư sản khác nhau về chất)
khái niệm về chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính, mỗi sự vật có nhiều thuộc tính, có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản, những thuộc tính này không tham gia vào việc quy định chất như nhau, chỉ có những thuộc tính cơ bản mới nói lên chất của sự vật, bởi vì trong quá trình vận động và phát triển của sự vật những thuộc tính không cơ bản có thể thay đổi hoặc mất đi, còn những thuộc tính cơ bản quy định về chất chưa thay đổi, chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất mới thật sự thay đổi.
Các nhà triết học duy tâm cho rằng chất chỉ là cảm giác chủ quan của con người, các nhà triết học theo quan điểm siêu hình thì coi chất là những gì tồn tại thuần túy tách khỏi sự vật; chỉ có phép biện chứng duy vật khẳng định chất là cái vốn có của sự vật, nó tồn tại khách quan cùng sự vật, không tách rời sự vật.
b.Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
Sự vật hiện tượng càng phức tạp thì những thông số về lượng càng phức tạp, trong tự nhiên và xã hội có những lượng được diễn tả bằng những con số chính xác, nhưng cũng có những lượng khó diễn tả bằng những số liệu cụ thể, mà chỉ có thể nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa (ví dụ: nhận thức của con người về thế giới); có những lượng là nhân tố quy định bên trong sự vật (ví dụ: số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa học), nhưng cũng có những lượng chỉ nói lên nhân tố bên ngoài của sự vật (ví dụ: chiều cao, cân nặng…).
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính tương đói, tùy thuộc vào từng mối quan hệ của sự vật, có cái trong mối quan hệ này là chất, trong mối quan hệ khác là lượng.
2.Nội dung quy luật: quy luật lượng chất là quy luật về sự tác động biện chứng giữa lượng và chất; những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt biến đối hơn, lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ chất cũ, chất mới được hình thành với lượng mới,quá trình tác động lẫn nhau giữa lượng và chất làm cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.
Bất cứ sự vật hiện tượng nào tồn tại trong sự thống nhất giữa chất và lượng, 2 mặt đó không tách rời nhau mà tác động nhau 1 cách biện chứng, trong sự vật hiện tính quy định chất không tồn tại nếu không có tính quy định về lượng, khi sự vật đang tồn tại,chất và lượng thống nhất với nhau ở 1 độ nhất định.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất. (ví dụ: nước tùy theo độ cao mà có trạng thái khác nhau).
Trong phạm vi một độ nhất định,2 mặt chất và lượng tác động qua lại với nhau làm cho sự vật và hiện tượng vận động và biến đổi, sự vận động và biến đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng, quá trình này diễn ra một cách từ từ theo cách thức tăng dần hoặc giảm dần; khi lượng thay đổi đến 1 giới hạn nhất định dẫn đến sự thay đổi về chất, giới hạn đó phụ thuộc vào từng sự vật hiện tượng cụ thể.
Sự thay đổi về chất được coi là bước nhảy, nó là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi dần dần về lượng, là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, nhưng nó không chấm dứt sự vận động nói chung, mà chỉ chấm dứt 1 dạng tồn tại của sự vật; kết quả sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời với sự thống nhất của chất và lượng mới (ví dụ: lực lượng sản xuất phát triển đến 1 trình độ nhất định xảy ra xung đột với quan hệ sản xuất hiện có đòi hỏi phải có sự thay đổi bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn).
Tính chất của bước nhảy được quyết định bởi tính chất của từng sự vật, bởi mâu thuẫn vốn có và bởi điều kiện trong đó diễn ra sự thay đỏi về chất; có các loại bước nhảy như:
Bước nhảy đột biến khi chất của sự vật biến đổi nhanh chóng ở tất cả các bộ phận cấu thành nên nó (ví dụ ;cách mạng tháng 8), bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích lũy dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần những nhân tố của chất cũ (ví dụ: cách mạng XHCN nước ta đi từ nền kinh tế lạc hậu từng bước quá độ lên CNXH).
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả mọi mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật; bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi về 1 số mặt, 1 số yếu tố của sự vật (ví dụ: hình thái kinh tế xã hội).
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
Tránh quan niệm sai lầm chỉ cần phát triển về lượng, rơi vào chủ nghĩa hữu khuynh, bảo thủ, sợ đổi mới, sợ cách mạng, sợ nhảy vọt.
Tránh tư tưởng tả khuynh ,gượng ép cách mạng, gượng ép sự nhảy vọt về chất mà không có sự chuẩn bị chu đáo, thực chất đó là căn bệnh chủ quan, nóng vội,duy ý chí ,không tính đến sự tích lũy, sự chuẩn bị chu đáo.
Phải có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm cao trong việc thực hiện các bước nhảy khi điều kiện cho phép.
CÂU 15: phân tích nội dung của quy luật :”phủ định của phủ định’; ‘ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong hoạt động thực tiễn’?
1.Khái niệm:
Phủ định: thế giới vật chất vận động và phát triển không ngừng; một dạng vật chất nào đó sinh ra; tồn tại, mất đi được thay thế bằng 1 dạng vật chất khác,triết học gọi sự thay thế đó là phủ định, là 1 yếu tố phải có trong quá trình vận động và phát triển của vật chất.
Phép biện chứng duy vật không đề cập đến sự phủ định chung, mà chỉ nói đến sự phủ định làm tiền đề,tạo điều kiện cho sự phát triển, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ, đó là sự phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng có những đặc điểm sau:
-Tính khách quan: những nhà triết học theo quan điểm siêu hình cho rằng phủ định là nguyên nhân bên ngoài đưa lại, xem sự vật hiện tượng là cái bị cô lập, tách rời nhau,phép biện chứng duy vật khẳng định nguyên nhân của phủ định để cái mới ra đời thay thế cái cũ chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật, vì vậy phủ định có tính khách quan, là yếu tố tất yếu của sự phát triển (ví dụ: CNXH phủ định chủ nghĩa tư bản chính là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản, vốn có, khách quan trong lòng xã hội tư bản, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất).
-tính kế thừa: những nhà triết học theo quan điểm siêu hình, coi phủ định là xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, chấm dứt sự liên hệ,sự vận động và sự phát triển của bản thân sự vật; còn quan điểm của những nhà triết học biện chứng duy vật thì phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển để tạo cái mới, ko thể là 1 sự phủ định tuyệt đối, PĐ sạch trơn mà là sự PĐ có kế thừa, cái mới ra đời trên cơ sở chọn lọc giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ, nó chỉ gạt bỏ đi những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phất triển( ví dụ: sự duy truyền của sinh vật; các hình thái kinh tế xã hội, trong xã hội loài người trong tư duy nhận thức của con người)
2. Nội dung quy luật: Thế giới vận động ko ngwngf thông qua quá trình phủ định của phủ định; tức là sự vật mới ra đồi như là kết quả của sự phủ định biện chứng cái cũ, rồi đến lược nó bị cái mới hơn phủ định, cứ thế tạo ra khuynh hướng vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao 1 cách vô tận theo hình xoắn ốc; sau mỗi chu kỳ của sự phát triển, sự vật lại trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới, cao hơn.
Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định của phủ đinh đã từng được các nhà biện chứng tự phát nêu ra, song do chưa nhận thức sâu sắc tính biện chứng của quá trình phát triển nên đã tuyệt đối hóa tính ;lặp lại sau 1 chu kỳ phát triển, coi đó như là 1 quá trình diễn ra theo vòng tròn khép kín.
Những nhà triết học duy vật biện chứng thì cho rằng sự vận động diễn ra theo nhiều xu hướng, tính vô cùng vô tận của thế giới vật chất cũng được biểu hiện trong tính vô cùng vô tận của các khuynh hướng vận động; theo đó sự vận động theo vòng tròn khép kín chỉ là 1 trong những khuynh hướng có thể, đó ko phải là khuynh hướng duy nhất.
Sự phát triển biện chứng thông qua nhiều lần phủ định biện chứng, chính là sự thống nhất loại bỏ, kế thừa và phát triển; mỗi lần phủ định biện chứng sẽ mang ;lại những nhân tố tích cực mới; do đó sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên ko ngừng; sự phát triển tiến lên ko ngừng đó, ko phái diển ra theo đường thẳng mà theo đường xoắn ốc, mỗi vòn xoáy biểu hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẩn; mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh chuyển hóa các mặt đối lập trong bản thân sự vật, sự phủ định lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho sự vật cũ trở thành cái đối lập của mình; lần phủ định tiêp theo dẫn đến sự ra đời của sự vật mới mang nhiều đặc trưng đối lập với cái trung gian, như vậy về hình thức sẽ trở lại cái xuất phát nhưng về thực chất ko phải giống nguyên cái cũ, mà dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Số lượng các lần phủ định trong 1 chu kỳ phát triển cụ thể, trong thực tế có thể nhiều hơn hay tùy theo tính chất của 1 quá trình phát triển cụ thể. (ví dụ: hạt lúa: 2, tơ tằm: 4)
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết 1 cách đúng đắn về xu hướng của sự phát triển và được diển ra trong quá trình quanh co, phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực đời sống xã hội.
Quyluật phủ định của phủ định giúp ta có cái nhìn về xu thế của thời đại mà ta đang sống, mặc dù hệ thống XHCN đã tan rã, qua đó xây dựng niềm tin tất thắng của CNXH đối với CNTB.
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới, cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật, nó luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển, trong lĩnh vực tự nhiên cái mới ra đời mang tính tự phát, trong lĩnh vực xã hội cái mới xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt động có ý thức của con người, qua đó xây dựng thái độ ủng hộ cái mới, đấu tranh loại trừ cái cũ trong đời sống xã hội.
Câu 16: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù” Cái chung và cái riêng”; Ý nghĩa phương pháp luận của nó trong hoạt động thực tiển?
1. Một số khái niệm:
-Cái riêng là phạm trù triết học được dùng đẻ chỉ 1 sự vật hiện tượng, 1 quá trình riêng lẻ nhất định (ví dụ: 1 hành tinh,1 cuộc cách mang,1 con người,)
-Cái chung là 1 phạm trù triết học được dùng đẻ chỉ những mặt ,những thuộc tính chung không những có ở1 kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật ,hiện tượng,hay quá trình riêng lẽ khác(vd; vận động, mâu thuẫn, lượng, chất).
-Cái đơn nhất là 1 phạm trù triết học dùng đẻ chỉ những nét những mặt ,những thuộc tính chỉ có ở 1 kết cấu vật chất cố định và không được lặp lại ở bất cứ kết cấu vật chất nào khác (vd: giai cấp công nhân VN trong những năm trước cách mạng tháng 8)’
2.Mối liên hệ biện chứng:
- Cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan: trong lịch sử triết học tồn tại 2 quan điểm đối lập nhau về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng; phái duy thực cho rằng cái chung mới tồn tại khách quan ,độc lập với ý thức con người, không phụ thuộc vào
Cái riêng,sinh ra cái riêng; phái duy danh thì cho rằng chỉ có cái riêng mới tồn tại khách quan, cái chung là những khái niệm do con người sáng tạo ra.
Phép biện chứng duy vật khẳng định cả cái riêng và cái chung đêu tồn tại 1 cách khách quan, chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau; thể hiện ở chỗ :cái chung tồn tại trong cái riêng và thông qua cai riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình; cái riêng ko tồn tại 1 cách độc lập mà chỉ tồn tại trong MQH với cái chung (vd: các phương thức SX trong XH loài người là những cái riêng về trình độ ,dân số…nhưng chúng có cái chung là do 2 yếu tố hợp thành: QHSX, LLSX,và quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX ).
-Cái riêng là cái toàn bộ phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn,bản chất hơn cái riêng:
Cái riêng phong phú hơn cái chung bởi vì ngoài những đặ điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ có nó có (vd: Giai cấp TS Việt Nam ngoài đặc điểm chung như gc TS là áp bức, bóc lột gcVS, nó còn có đặc điểm riêng là ra đời sau gcVS Việt Nam)
Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng, bởi vì nó phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối kiên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định và phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại, vì vậy cái chung là cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của sự vật.
-Trong những đ.kiện nhất định, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau; sự chuyển hóa cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của tiến trình phát triển đi lên, cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái lỗi thời đã bị phủ định( vd: trong điều kiện sống bị thay đổi, 1 số cá có thể thay đổi cách sống để thích nghi và dần thành cái chung cho cả loài, đó là quá trình cái đơn nhất chuyển thành cái chung ; ngược lại, những đặc điểm chung của loài ko còn thích nghi, sẽ bị mất dần trong từng cá thể thì đó là quá trình chuyển hóa cái chung thành cái đơn nhất).
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
-Chỉ có thể tìm cái chung thông qua khái quát hàng loạt cái riêng, tùy thuộc vào năng lực khái quát của từng con người, trong thực tiễn phái cần chú ý phát hiện cái riêng điển hình để khái quát thành cái chung (vd: nhân điển hình tiên tiến).
-Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng,cho nên khi áp dụng cái riêng không được rập khuôn, máy móc ,mà phải biết cụ thể hóa, cá biệt hóa, thích nghi hóa tùy theo điều kiện cụ thể (vd;CMVN thắng lợi là 1 vd điển hình về sự vận động sáng tạo, gắn giải phóng dân tộc với CNXH và tinh thần đoàn kết tát cả các lực lượng nhằm đánh đổ thực dân và phong kiến)
-Quan hệ giữa cái chung và cái riêng là rất mật thiết, cho nên ko được giải quyết 2 vấn đề trên 1 cách biệt lập, tách rời nhau.
- Nâng nhận thức lên cái chung, cái khái quát, cái bản chất, cái quy luật nhằm định hướng hoạt động thực tiễn có hiệu quả cao hơn( vd: tổng kết,rút kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo và điều hành).
-Phải xây dựng tính tích cực tác động theo 2 hướng, thúc đẩy cái đơn nhất thành cái chung, nếu cái đơn nhất là tích cực và tiến bộ; hạn chế mặt tiêu cực, trái quy luật khách quan của cái chung, chuyển hóa dần trở thành cái đơn nhất.
CÂU 17: phân tích nội dung cơ bản của cặp trù “Tất nhiên và ngẫu nhiên” ý nghĩa pháp luận của nó trong hoạt động thực tiển?
1. một số khái niệm:
Tất nhiên là cái do bản chất, do những nguyên nhân cơ bản bên trong của sự vật hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác.
Ngẫu nhiên là cái không do mối quan hệ bản chất, bên trong quyết định mà nó là do sự ngẫu hợp của những hoàn cảnh bên ngoài quyết định,do đó nó có thể xuất hiện như thế này hay thế khác(ví dụ: giai cấp tư sản bốc lột công nhân lao động là tất nhiên,còn sản xuất ra cái gì đó là ngẫu nhiên).
Cần chú ý rằng,cả cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên tồn tại đều có nghiên nhân, nhưng không phải mọi hiện tượng đều tất nhiên xuất hiện.
2. mối quan hệ biện chứng:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng : tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại một cách khách quan , ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người. Trong quá trình phát triển của sự vật , không chỉ có cái tất nhiên mới đong vai trò quan trọng ,mà ngay cả cái ngẫu nhiên cũng có vai trò của nó; nếu tất nhiên chi phối sự phát triển của sự vật ,lam cho sự vật diễn ra nhanh hơn hoặc chậm hơn.
Tuy tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại , nhưng chúng không tồn tại một cách độc lập nhau dưới dạng thuần túy ;nghĩa là không có tất nhiên thuần túy ngẫu nhiên thuần túy; chúng tồn tại trong sự thông nhất hữu cơ, thể hiện ở chổ cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình qua vô số cái ngẫu nhiên ;còn ngẫu nhiên là hình thúc biểu hiện của tất nhiên, đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên ; điều này cho thấy rằng cái tất nhiên bao giờ cũng là khuynh hướng của sự phát triển, nhưng khuynh hướng ấy mỗi khi bộc lộ thì bộc lộ dưới một trong nhưng hình thức của cái ngẫu nhiên(Ví dụ :sự xuất hiện anh hùng là tất nhiên, song là ai thì đó là ngẫu nhiên).
Ranh giớ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, bởi vì chúng không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện xác định chúng chuyển hóa lẫn nhau, tất nhiên trở thành ngẫu nhiên và ngược lại (vd:trong xã hội cộng sản nguyên thủy việc trao đổi hàng hóa là ngẫu nhiên, song về sau do sản xuất phát triển xã hội có nhiều hàng hóa hơn nên việc trao đổi trở thành cái tất nhiên.
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
Nếu như cái tất nhiên là cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của nó, còn cái ngẫu nhiên có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, xuất hiện như thế này hoặc như thế khác, cho nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần căn cứ vào cái tất nhiên chứ không dựa vào cái ngẫu nhiên, dừng lại ở cái ngẫu nhiên, nhưng không vì thế mà bỏ qua cái ngẫu nhiên; cần có phương án dự phòng cho trường hợp các sự biến ngẫu nhiên bất ngờ xuất hiện, có như vậy mới tránh được những bị động trong trong hoạt động thực tiễn.
Vì cái tất nhiên bao giờ cũng biểu lộ ra bên ngoài bằng cái ngẫu nhiên và cũng vạch ra con đường đi của mình qua vô số cái ngẫu nhiên, vì vậy muốn nhận thức được cái tất nhiên phải bắt đầu bằng cái ngẫu nhiên và phải thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
Vì cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại 1 cách thuần túy mà bao giờ cũng là hình thức trong đó ẩn nấp cái tất nhiên,cho nên trong hoạt động thục tiễn không nên bỏ qua cái ngẫu nhiên ,mà bao giờ cũng phãi chú ý tìm ra cái tất nhiên đang ẩn dấu đàng sau cái ngẫu nhiên đó .
Trong những điều kiện nhất định cái tất nhiên có thể trở thành cái ngẫu nhiên và ngược lại, cho nên cần chú ý tạo điều kiện cần thiết hoặc để ngăn trở hoặc để sự chuyển hóa đó diễn ra tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn .
Câu 18:Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù “ Nguyên nhân và kết quả’’; ý nghĩa phương pháp luận của nó trong hoạt động thực tiễn?
1.Một số khái niệm:
_ Nguyên nhân la sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra sự biến đổi nhất định.
-Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau của các mặt trong 1 sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau (vd: cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản là nguyên nhân của cách mạng vô sản và ngược lại.
2.Tính chất của mối liên hệ nhân quả: theo quan điểm của phép biện chứng duy vật thì mối quan hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu.
Tính khách quan:chủ nghĩa duy tâm khách quan và tôn giáo không thừa nhận mối liên hệ nhân quả không tồn tại ngay trong sự vật hiện tượng và cho rằng mối liên hệ ấy chỉ tồn tại ở 1 lực lượng siêu nhiên hoặc ở thượng đế; chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi khái niệm nguyên nhân và kết qua chỉ là những kí hiệu mà con người dùng để ghi những cảm giác của mình, sự phát triển của khoa học và thực tiễn đã bác bỏ những quan điểm sai lầm trên, những nhà duy vật biện chứng khẳng định rằng mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ khách quan của bản thân sự vật, nó tồn tại ngoài ý muốn của con người, ko phụ thuộc vào việc con người có nhận thức được nó hay ko, con người chỉ có thể tìm ra mối quan hệ ấy trong giới tự nhiên khách quan chứ ko phải trong tư duy của mình.
-Tính phổ biến: tất cả các hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều được gây nên bởi những nguyên nhân nhất định, ko có hiện tượng nào ko có nguyên nhân cả, chỉ có điều nguyên nhân dó có được phát hiện hay là chưa mà thôi.
-Tính tất yếu: kết quả do nguyên nhân gây ra phụ thuộc vào những điều kiện nhất định, những điều kiện này là cần thiết cho 1 biến cố có thể xảy ra, thực tiễn cho thấy rằng 1 nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện nhất định chỉcó thể gây ra kết quả nhất định (vd: nước từ chất lỏng thành chất khí trong điều kiện 100 độ C và các vd khác trong xã hội và trong tư duy).
3.Mối quan hệ biện chứng nhân quả:
a.Nguyên nhân sản sinh ra kết quả:
-.Nguyên nhân là cái sản sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn có trước kết quả, còn kết quả chỉ xuất hiện ngay sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động; tuy nhiên sự sắp xếp này chỉ mang tính tương đối, bởi và có cái là nguyên nhân của quá trình này nhưng lại là kết quả của quá trình trước đó và cứ như thế tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng vô tận.
-Cùng 1 nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, ngược lại 1 kết quả có thể được gây nên bởi nhiều nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẽ hay tác động cùng 1 lúc.
-Căn cứ vào tính chất và vai trò của từng nguyên nhân đôis với sự hình thành kết quả có thể phân chia nguyên nhân ra thành các loại sau:
Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu: những nguyên nhân nào mà thiếu chúng thì kết quả sẽ ko xảy ra gọi là nguyên nhân chủ yếu, những nguyên nhân nào mà sự có mặt của nó chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời, ko ổn định, cá biệt của hiện tượng thì gọi là nguyên nhân thứ yếu(vd: nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảnh kinh tế trong chế độ tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lao động có tính chất xã hội với chiếm hữu có tính chất cá nhân, còn nguyên nhân thứ yếu là sự giảm nhu cầu đối với mặt hàng nào đó,sự phá sản của 1 ngân hàng nào đó ảnh hưởng dây chuyền toàn bộ nền kinh tế)
Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa những mặt hay những yếu tố của cùng 1 kết cấu vật chất nào đó và gây ra những biến đổi nhất định, nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những kết cấu vật chất khác nhau và gây ra những biến đổi thích hợp trong những kết cấu vật chất ấy.Nguyên nhân bên trong bao giờ cũng quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của các kết cấu vật chất, còn nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy được tác dụng thông qua những nguyên nhân bên trong (vd: sự tiến bộ tronh học tập của mọi cá nhân).
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan: nguyên nhân khách quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập đối với ý thức của con người, của các giai cấp,các chính đảng, nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức con người, trong lĩnh cực hoạt động của các cá nhân, các giai cấp và các chính đảng nhằm thúc đẩy hay kìm hãm sự xuất hiện, phát triển các quá trình xã hội.
b.Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân: nguyên nhân sản sinh ra kết quả, nhưng sau khi ra đời kết quả ko giữ vau trò thụ động đối với nguyên nhân, trái lại nó có ảnh hươnhr tích cực đối với nguyên nhân(vd: thanh sắt đỏ nhúng vào nước làm cho nước nóng lên, từ sự nóng lên của nước đã kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của sắt)
4.Ý nghĩa phương pháp luận;
Mối liên hệ nhânh quả có tính khách quan, ko có sự vật hiện tượng nào tồn mà ko có nguyên nhân, có những nguyên nhân hiện nay con người chưa khám phá nhưng rồi dần dần con người cũng phát hiện được, đây chính là nhận thức khoa học của phép biện chứng duy vật.
Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra,những nguyên nhân này có vị trí vai trò khác nhau trong việc hình thành nên kết quả, vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân tích thân trọng các nguyên nhân, xác định nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong để có cách xử lí cho phù hợp mang lại hiệu quả cao nhất.
Kết quả do nguyên nhân sinh ra,nhưnh kết quả ko tồn tại một cách thụ động, vì vậy trong thực tiễn chúng ta phải biết khai thác, tận dụng các kết quả đạt được để nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự vật tiếp tục phát triển đi lên, muốn loại bỏ hiện tượng nào thì loại bỏ nguyên nhân nảy sinh ra nó và ngược lại muốn cho hiên tượng ấy xất hiện cần tạo ra những nguyên nhân và điều kiện cần thiết, để đẩy nhanh quá trình kìm hãm hay loại trừ sự biến đổi của 1 hiện tượng xã hội nào đó cần làm cho nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều (hoặc ngược chiều),với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
CÂU 19: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù”Bản chất và hiện tượng”; ý nghũa phương phấp luận của nó trong hoạt động thực tiễn?
1. Một số khái niệm:
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó. Hiện tượng là cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, cái tạo nên bản chất của sự vật đồng thời cũng là cái chung của sự vật đó (vd: bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ của xã hội, đúng cho mọi người chứ ko riêng 1 người nào, do vậy nó vừa thể hiện cái bản chất vừa thể hiện cái chung).
Cái bản chất đồng thời có tính quy luật, nói đến bản chất là nói đến tổng hợp các quy luật quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, vì vậy phạm trù vật chất là phạm trù cùng bậc, cung loại với phạm trù quy luật (vd: quy luật giá trị thặng dư và bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa).
Tuy nhiên chúng hoàn toàn ko đồng nhất nhau, quy luật là mối liên hệ tất nhiên phổ biến, dược lặp đi lặp lạ và ổn định giữa các hiện tượng, giữa các mặt của chúng, còn bản chất là tổng hợp các mối liên hệ phổ biến chung cho nhiề hiện tượng, do vậy phạm trù vật chất rộng hơn, phong phú hơn phạm trù quy luật.
2.Mối quan hện biện chứng:
-Bản chất và hiện tượng là những phạm trù triết học tồn tại khách quan; những người duy tâm chủ quan cho rằng bản chất ko thật sự tồn tại, còn hiện tượng chỉ là tổng hòa các cảm giác, nghĩa là chỉ tồn tại trong ý chí chủ quan của con người, những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại của bản chất nhưng lại xem đó là cái tinh thần.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định :cả bản chất và hiện tượng tồn tại 1 cách khách quan; bởi và bất cứ sự vật hiện tượng nào củng được tạo nên từ những yếu tố nhất định có mối quan hệ gắn bó với các yếu tố khác, tạo nên những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định và đó là bản chất của sự vật, sự vật tồn tại khách quan, nên những mối liên hệ này cũng tồn tại khách quan, tức bản chất là khách quan và kết luận này cũng đúng cho hiện tượng vì hiện tượng là cái phản ánh bản chất ra bên ngoài.
-Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng ; sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chổ bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện của bản chất; không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy mà không biểu hiện qua hiện tượng, ngược lại không có hiện tượng nào lại không phải là sự thể hiện của một bản chất nào đó.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng giữa 2 mặt đói lập; mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chổ: bản chất phản ánh cái chung, cái bên trong của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng ,cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất; đó là sự đối lập giữa cái tương đối ổn định và cái thường xuyên biến đổi; hiện tượng phong phú hơn bản chất còn bản chất thì sâu sắc hơn hiện tượng.
3. ý nghĩa phương pháp luận;
Phải nhận thức bản chất thông qua các hiện tượng nhưng không dừng lại ở hiện tượng; nhận thức được bản chất là nâng cao khả năng tư duy, góp phần ứng dụng một cách rộng rãi bản chất cho hiện tượng khác nhau.
Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật, nên chỉ có thể tìm ra bản chất của sự vật ở trong chính sự vật không thể ở ngoài nó , khi kết luận bản chất sự vạt cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
Những hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải biến nhiều khi xuyên tạc bản chất, cho nên trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật cần phải xem xét nhiều hiện tượng khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau và cần thận trọng khi xem xét đánh giá.
Câu 20: phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù “Nội dung và hình thức” ; ý nghĩa phương pháp luận của nó trong hoạt động thực tiển?
1. Một số khái niệm :
Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố nhũng quá trình tạo nên sự vật ; hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ phương pháp tồn tại và phát triển sự vật, là hệ thống các mối quan hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
Bất kì sự vật nào cũng có hình thức bên ngoài của nó, nhưng hình thức trong phép biện chứng duy vật là hình thức bên trong, tức là cấu trúc bên trong của sự vật( ví dụ :một tác phẩm văn học ,hinh thức bên ngoài chính là độ dầy, kích thước … còn hình thức bên trong chính là bố cục, hinh tượng ngệ thuật, ngôn ngữ, bút pháp….)
2. mối quan hệ biện chứng:
-Nội dung và hình thức bao giờ cũng là 1 thể thống nhất, gắn bó nhau, ko có 1 hình thức nào lại ko chứa đựng 1 nội dung và ko 1 nội dung nào lại ko tồn tại trong 1 hình thức nhất định.
Tuy nhiên, ko phải lúc nào nội dung và hình thức phù hợp với nhau, ko phải nội dung nào chỉ được thể hiện bằng 1 hình thức nhất định và cũng ko phải 1 hình thức chỉ chứa đựng 1 nội dung cụ thể, trong thực tế, tùy theo tình hình mà 1 nội dung có thể được thể hiện thông qua nhiều hình thức và 1 hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung khác nhau.
-So với hình thức, nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi, còn hình thức là mặt tương đối ổn định của sự vật, vì vậy sự phát triển và biến đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ nội dung, còn hình thức cũng biến đổi nhưng chậm hơn và dựa vào sự biến đổi của nội dung (vd: nội dung giai cấp quyết định đến hình thức nhà nước cho phù hợp).
Hình thức do nội dung quyết định, nhưng hình thức luôn có tính độc lập tương đối và tác động trở lại với nội dung, khi phù hợp nó sẽ mở đường và thức đẩy sự phát triển nội dung và ngược lại ho phù hợp nó sẽ kìm hãm sự vận động và phát triển của nội dung.
-Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình phát triển của sự vật, lúc đầu là những biến đổi về nội dung, tác động ảnh hưởng đến mối liên hệ tương đối bền vững của hình thức, khi những biến đổi ấy tiếp tục diễn ra thì hình thức củ trở nên qua chật hẹp, ko còn phù hợp với nội dung mới và bắt đầu kìm hãm sự phát triển của nội dung, sự ko phù hợp tiếp tục phát triển và tới lúc nào đó xảy ra xảy ra xung đột, hình thức cũ bị phá bỏ, tạo ra hình thức mới phù hợp với nội dung mới và sự vật chuyển sang trạng thái mới về chất (vd: quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong các hình thái kinh tế xã hội).
3.ý nghĩa phương pháp luận:
Nếu nội dung và hình thức luôn gắn bó mật thiết với nhau thì trong hoạt động thực tiễn cần tránh sự tách rời giữa chúng hoặc tuyệt đối hóa vai trò của 1 trong 2 mặt vốn có của sự vật, nhất là trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật (vd: chủ nghĩa hình thức trong các hoạt động lễ hội, trong tổ chức đại hội).
Cùng 1 nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức và ngược lại, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội phải biết sử dụng mọi hình thức có thể có để phục vụ cho những nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng (vd: cần chống 2 căn bệnh phổ biến hiện nay đó là bệnh bảo thủ ko chịu thay đổi hình thức, muốn ổn định, ko muốn rủi ro hoặc bênh đả phá cái cũ, phủ nhận sạch trơn những hình thức cũ ,xem cái cũ là cái xấu).
Vì nội dung quyết định hình thức, cho nên khi xem xét sự vật trước hết phải căn cứ vào nội dung; đồng thời phải thường xuyên theo dõi mối quan hệ giữa nội dung và hình thức để có sự điều chỉnh cho phù hợp, tác động thúc đẩy các hoạt động thực tiễn đi đúng hướng.
CÂU 21:Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù”khả năng và hiện thực”; ý nghĩa phương pháp luận của nó trong hoạt động thực tiễn?
1. Một số khái niệm:
Khả năng là cái hiện thực chưa có, chưa tới nhưng sẽ có, sẽ tới trong những điều kiện thích hợp, hiện thực là tất cả những gì hiện có, hiện dang tồn tại thật sự.
Hiện thực bao gồm những sự vật hiện tượng đang tồn tại 1 cách khách quan trong thực tế và cả những gì đang tồn tại 1 cách chủ quan trong ý thức con người.
Mọi khả năng đều là khả năng thực tế, đều tồn tại thực sự do hiện tại sinh ra( vd: hạt thóc có khả năng trở thành cây lúa khi có những điều kiện thích hợp).
Tuy mọi khả năng đều là khả năng thực tế song sự hình thành của chúng ko hoàn toàn như nhau: có khả năng được hình thành 1 cách tất nhiên do quy luật vận động nội tại của sự vật gọi là khả năng tất nhiên, có khả năng hình thành 1 cách ngẫu nhiên gọi là khả năng ngẫu nhiên(vd: khi gieo đồng tiền, thì khả năng xuất hiện 1 trong 2 đồng tiền là tất nhiên, còn xuất hiện mặt nào đó là khả năng ngẫu nhiên); khả năng tất nhiên bao gồm: khả năng gần tức là khả năng đã có đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực, khả năng xa nghĩa là phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển quá độ mới đủ điều kiện biến thành hiện thực( vd: sản xuất 10 tấn lúa/ha/năm là khả năng gần, thực hiện nguyên tắc “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu là khă năng xa”).
Ngoài những dạng khả năng chính trên đây còn có thể phân khả năng thành khả năng chủ yếu, khả năng thứ yếu; khả năng tốt, khả năng xấu, khả năng cùng tồn tại ,khả năng loại trừ nhau…
2.Mối quan hệ biện chứng:
-Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ nhau, ko tách rời nhau, luôn chuyển hóa nhau; trong thực tế quá trình phát triển của sự vật chính là quá trình mà trong đó khả năng biến thành hiện thực, còn hiện thực này vì quá trình phát triển nội tại của mình lại sản sinh ra khả năng mới, các khả năng mới ấy trong những điều kiện thích hợp lại biến thành hiện thực mới, tạo thành 1 quá trình vận động liên tục, ko ngừng phát triển của sự vật.
-Trong cùng1 điều kiện nhất định, ở cùng 1 sự vật có thể tồn tại 1 số khả năng chứ ko phải chỉ có 1 khả năng (vd: 1 học sinh đang học trong các trường đại học có nhiều khả năng trở thành kĩ sư, bác sĩ ,giáo viên…)
-Để khả năng biến thành hiện thực thường cần ko chỉ 1 điều kiện mà là tập họp những điều kiện, tập họp đó gọi là điều kiện cần và đủ, nếu có nó thì khả năng nhất định trở thành hiện thực, sự biến nhất định sẽ xuất hiện (vd: để cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra cần có các điều kiện như: giai cấp thóng trị ko thể giữ nguyên sự thống trị của mình dưới dạng cũ nữa, giai cấp bị trị bị bần cùng hóa, tính tích cực của quần chúng tăng lên, giai cấp cách mạng có đủ năng lực tiến hành những hành động mạnh mẽ, thiếu 1 trong những điều kiện đó thì cách mạng ko nổ ra)
-Khả năng có thể trở thành hiện thực theo 1 số con đường chủ yếu như: thuần túy tự nhiên, do các quy luật khách quan chi phối (vd: các quá trình vũ trụ địa chất); sự chuyển hóa mang tính tự nhiên, nhưng có sự tác động của con người (vd: đột biến gen, lai giống nhân tạo), sự chuyển hóa thuần túy do tác động của con người (vd: sản xuất vật liệu mới).
-Hoạt động của ý thức con người trong đời sống xã hội có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực, nó có thể làm cho quá trình chuyển hóa diễn ra nhanh hơn hoặc chậm hơn, có thể điều khiển cho khả năng phát triển theo hướng này hay hướng khác phục vụ cho chính lợi ích của con người bằng cách tạo ra những điều kiện thích ứng.
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
-Vì hiện thực là cái tồn tại thật sự ,khả năng là cái chưa có, nên trong thực tiễn phải dựa vào hiện thực hơn là dựa vào khả năng, tuy nhiên nói như thế ko có nghĩa là xem thường khả năng, vì khả năng biểu thị khuynh hướng phát triển sự vật trong tương lai, nên tuy ko dựa vào khả năng nhưng chúng ta phải tính đến các khả năng có thể có để đề ra các chủ trương, kế hoạch hành động cho sát ,đúng.
-Khi xác định các khả năng cần chú ý: vì khả năng do sự vật sinh ra và tồn tại trong chính sự vật, nên chỉ có thể tìm các khả năng của sự vật ở ngay trong chính khả năng nó chứ ko thể ở nơi khác, khă năng tồn tại ngay trong hiện thực, gắn bó chặt chẽ với hiện thực nên sẽ sai lầm nếu tach rời chúng để xem xét, sai lầm ấy được biểu hiện ở chỗ ko thấy khả năng tiềm tàng của sự vật do đó ko xác định được tương lai phát triển của nó hoặc khả năng có thể biến thành hiện thực do đó ko tạo ra những điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự chuyển biến này theo yêu cầu của mình.
-Sau khi xác định được khả năng phát triển của sự vật, nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn là phải tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng; trong quá trính ấy cần chú ý: phải tính toán đến mọi khả năng có thể có, tốt cũng như xấu, tiến bộ cũng như lạc hậu, trên cơ sở đó dự kiến chương trình hành động phù hợp, cần đặc biệt chú ý đến khả năng tất nhiên, khả năng gần,đặc biệt trong đời sống xã hội, khả năng ko thể trở thành hiện thực nếu như ko có sự tác động của con người, vì vậy tùy theo điều kiện cụ thể mà có biện pháp phát huy nhân tố chủ quan của con người tham gia tích cực vào quá trình biến đổi hoặc ngăn cản khả năng thành hiện thực, cần tránh cả 2 khuynh hướng hoặc tuyệt đối hóa hoặc xem thường nhân tố chủ quan.
CÂU 22:Bản chất của nhận thức thực tiễn và vai trò thực tiễn đối với nhận thức, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí?
1.Bản chất của nhận thức: nhận thức là gì? Con người có thể nhận thức được thế giới hay ko? Đây là 1 trong những vấn đề cơ bản, các trường phái triết học tranh luận và có những câu trả lời khác nhau.
Các nhà triết học duy tâm ko thừa nhận thế giới vật chất tòn tại độc lập với ý thức con người, do đó ko thứa nhận nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan, các nhà duy tâm chủ quan cho rằng tất cả mọi cái đang tồn tại đều là phức hợp của cảm giác con người, do đó nhận thức chẳng qua là nhận thức của cảm giác và biểu tượng của con người, các nhà duy tâm khách quan, mặc dù ko phủ nhận khả năng nhận thức thế giới, song coi đó như là sự tự nhận thức của ý niệm, tư tưởng tồn tại bên ngoài con người.
Những nhà theo thuyết hoài nghi thì nghi ngờ tính xác thực của tri thức, nghi ngờ sự tồn tại của bản thân thế giới bên ngoài, những người theo thuyết ko thể biết lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới, đối với họ thế giới là ko thể biết được, lí trí của con ngưới rất hạn chế và ngoài giới hạn của cảm giác ra con người ko thể biết được điều gì nữa.
Khác với những quan điểm trên đây, chủ nghĩa duy vật thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, tuy nhiên do hạn chế bởi tính siêu hình, máy móc nên chủ nghĩa duy vật trước Mác ko giải quyết 1 cách khoa học những vấn đề về lí luận nhận thức, chưa thấy đầy đủ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Chủ nghĩa Mác Lênin đã kế thừa những thành tựu khoa học, kĩ thuật và thực tiễn xã hội đã xây dựng nên lí luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, theo đó:
-Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc lập với cảm giác, tư duy và ý thức con người.
-Thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người, ko có cái gì con người ko thể biết , chỉ có cái chưa biết và hy vọng trong tương lai với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, con người sẽ biết được.
Nhận thức ko phải là hành động tức thời, giản đơn ,máy móc và thụ động mà là 1 quá trình biện chứng, tích cực ,sáng tạo, quá trình ấy đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, là quá trình đi từ hiện thực đến bản chất, từ kém sâu sắc hơn đến sâu sắc hơn.
-Cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn, thực tiễn vừa là mục đích nhận thức vừa là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lí của nhận thức, nhận thức là quá trình con người phản ánh 1 cách biện chứng, năng động sáng tạo thế giới khách quan trên co sở thực tiễn lịch sử-xã hội.
Con người là sản vật của tự nhiên, song với hoạt động có ý thức nó tự tách mình ra khỏi tự nhiên và coi thế giới bên ngoài là khách thể của nhận thức và thực tiễn, chủ thể nhận thức như vậy ko chỉ là cá nhân mà còn là 1 tập thể, 1 cộng đồng người và cả loài người, khách thể nhận thức chính là các sự vật hiện tượng trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức của chủ thể, như vậy hiện thực khách quan vốn đã tồn tại, còn khách thể của nhận thức lại ko ngừng tăng lên cả về bề rộng lẫn chiều sâu trong quan hệ với sự phát triến nhận thức của chủ thể.
2.thực tiễn và vai trò thực tiễn đối với nhận thức:
a. Thực tiễn là phạm trù triêtf học phản ánh những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử, xã hội của con người nhằm cải tạo thiên nhiên và xã hội .
Thực tiễn là hoạt động đặc trưng bản chất con người và không ngừng phát triển bởi các thế hệ loài người; khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiển con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo mục đích của mình; những hoạt động như vậy được thực hiện một cách khách quan.
Tuy trình độ và hình thức hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiển luôn luôn là một dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người, hoạt động đó chỉ có thể tiến hành thông qua các quan hệ xã hội; thực tiển cũng có quá trình vận động và phát triển, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ xã hội của con người, do đó về nội dung và phương thức thực hiện, thực tiễn bao giờ cũng mang tính lịch sử xã hội.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, với những hình thức ngày càng phong phú; hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất,đây là hình thức nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì nó tạo ra cơ sở cho các hình thức hoạt động khác của con người và cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; một dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị Xã hội nhằm biến đổi các quan hệ xã hội,chế độ xã hội;thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực tiễn ,hình thức này ngày càng đóng vai trò quan trọng và trực tiếp đối với sự phát triển của nhận thức khoa học nói riêng, nhận thức về sự phát triển của xã hội nói chung .
b. vai trò thực tiển đối với nhận thức. Thực tiển và nhận thức không ngừng pháp triển trong sự tác động lẫn nhau ,trong đó thực tiển đóng vai trò cơ sở ,là động lực, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lí.
Con người quan hệ với thế giới ko phải bắt đầu bằng lí luận mà bằng thực tiễn, chính từ trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức con người được hình thành và phát triển, bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người nhận biết chúng, ban đầu con người thu nhận mang tính cảm tính, sau đó so sánh, phân tích ,tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa để phản ánh bản chất, quy luật vận động của sự vật.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới, con người biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực bản chất và năng lực trí tuệ của mình, thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, con người càng đi sâu khám phá thế giới càng làm phong phú và sâu sắc thêm trí tuệ của mình.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, lí luận khoa học chí có ý nghĩa thật sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn và cải tạo thực tiễn, ngày nay công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẽ, phức tạp đòi hỏi lí luận phải đi sâu nghiên cứu như: vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa…
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí, tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lí, nhưng thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn luôn thay đổi và là quá trình được thực hiện bởi con người nên ko thể tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Cần xây dựng quan điểm thực tiễn khi xem xét vấn đề, cần chống tư tưởng giáo điều, bảo thủ ,chủ quan ,duy ý chí.
3.Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí: nhận thức dựa trên cơ sở thực tiễn nhưng nhận thức diễn ra như thế nào? Vấn đề này được Lenin diễn tả 1 cách khái quát như sau: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn-đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lí, của sự nhận thức thực tại khách quan”.
a.Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, nó thể hiện dưới 3 hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người, cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người (vd; màu sắc ,âm thanh, ánh sáng ,nhiệt độ) theo Lenin thì cảm giác chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật, tri giác nảy sinh trên cơ sở cảm giác và là sự kết hợp các cảm giác, so với cảm giác thì tri thức là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ, sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng và hình ảnh về sự vật, biểu tượng chỉ để lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật và thường được xuất hiện trở lại khi có những tác nhân tác động kích thích đến trí nhớ của con người.
b.Tư duy trừu tượng( nhận thức lí tính) là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở của nhận thức cảm tính, là sự phản ảnh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan, tư duy có tính năng động sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, bên trong sự vật và do đó phản ánh sâu sắc hơn và đầy đủ hơn về sự vật, nhận thức lí tính hay tư duy trừu tượng được thể hiện ở các hình thức khác nhau như: khái niệm,phán đoán, suy lí.
Khái niệm: là hình thức tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của 1 tập hợp các sự vật hiện tượng nào đó (vd: cái nhà, con người, giai cấp) và do đó có tính khách quan, khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học, là phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau. Nội hàm của khái niệm ko phải là bất biến mà luôn vận động và phát triển cùng với sự vận động và phát triển của hiện thực khách quan và khả năng nhận thức của con người.
Phán đoán: là hình thức của tư duy trừu tượng, vận dụng các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định thuộc tính, 1 mối liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trong ý thức con người, phán đoán được biểu hiện dưới hình thức con người, phán đoán dược biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định.
Suy lí là hình thức của tư duy trừu tượng, trong đó xuất phát từ 1 hay nhiều phán đoán làm tiền đề đẻ rút ra phán đoán mới làm kết luận (vd: mọi kim loại đều dẫn điện, sắt là kim loại do đó sắt dẫn điện), suy lí là công cụ quan trọng của tư duy trừu tượng, thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái đã biết nhận thức cái chưa biết 1 cách gián tiếp.
c.Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức li tính:
theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính là 2 giai đoạn khác nhau trong việc nhận thức sự vật, nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể,nhưng chưa sâu sắc về sự vật, còn nhận thức lí tính thì phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng, khái quát những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ biến, tất yếu của sự vật.
Tuy nhiên, nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính lại thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ tác động lẫn nhau, bổ sung hổ trợ nhau, ko tách rời nhau, chúng đều phản ánh thế giới vật chất, có cùng 1 cơ sở sinh lí và hệ thần kinh con người và đều cùng chịu chị phối bởi thực tiễn lịch sử xã hội.
Nhận thức cảm tính là cơ sở nhận thức lí tính, ko có nhận thức cảm tính thì ko thể có nhận thức lí tính, ngược lại nhận thức cảm tính mà ko có nhận thức lí tính thì ko thể nắm bắt được bản chất và quy luật vận động của sự vật, trong thực tế chúng thường diễn ra đan xen nhau trong mỗi quá trình nhận thức.
Trong hoạt động thực tiễn ko nên tuyệt đối hóa 1 trong 2 giai đoạn của quá trình nhận thức, tránh xem xét nó trong sự biệt lập của từng giai đoạn, đánh giá đúng mức vai trò của từng giai đoạn.
4.Vấn đề chân lí:
Vấn đề chân lí là 1 trong những vấn đề cơ bản của lí luận nhận thức, nhiệm vụ của nhận thức là đạt kết quả chân lí, chân lí là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được thực tế kiểm nghiệm, mọi chân lí đều có tính khách quan, tính cụ thể, tính tuyệt đối và tính tương đối.
Tính khách quan của chân lí, nghĩa là tuy chân lý là nhận thức của con người nhưng nội dung của nó không phụ thuộc vào con người mà lệ thuộc vào sự khách quan được chân lý phản ánh; chủ nghĩa duy vật hệ chặc chẽ với việc thừa nhận chân lí khách quan nếu không thì nhất định sẽ dẫn tới thuyết ko thể biết và chủ nghĩa chủ quan (quan điểm khách quan khi xem xét giải quyết vấn đề).
Tính cụ thể của chân lí, nghĩa là ko có chân lí trừu tượng, chân lí bao giờ cũng gắn với 1 sự vật, 1 lĩnh vực cụ thể của hiện thực và được phát triển trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể đó, nếu thoát khỏi điều kiện lịch sử-xã hội cụ thể thì cái vốn là chân lí sẽ ko còn là chân lí nữa (quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét giải quyết vấn đề).
Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lí: chân lí ko phải là sản phẩm có sẵn mà là 1 quá trình, chân lí được hình thành và phát triển dần dần, từng bước phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể của chủ thể trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức về thế giới khách quan.
Chân lí tương đối là những tri thức phản ánh hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện cần phải được bổ sung, điều chỉnh trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức, chân lí tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách quan, sở dĩ như vậy là do thế giới vật chất là vô cùng vô tận, nó biến đổi ko ngừng và ko có giới hạn tận cùng, còn nhận thức luôn bị hạn chế bởi năng lực cá nhân và điều kiện lịch sử cụ thể.
Giữa chân lí tương đối và chân lí tuyệt đối có quan hệ hữu cơ lẫn nhau, chân lí tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của chân lí tuyệt đối, chân lí tuyệt đối bao gồm những chân lí tượng đối đang phát triển, trong thực tiễn cần tránh tương đối hóa cả 2 loại chân lí trên, nếu cường điệu hóa chân lí tuyệt đối, xem nhẹ chân lí tuyệt đối dễ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ trì truệ, ngược lại nếu cường điệu hóa chân lí tương đối, hạ thấp chân lí tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa xét lại ,ngụy biện, hoài nghi, ko thể biết.
CÂU 23; Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, liên hệ trong điều kiện Việt nam:
1.Khái niệm:
Các nhà triết học duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã hội là từ ý thức tư tưởng của con người hay từ lực lượng siêu nhiên nào đó, các nhà duy vật trước Mác cũng giải thích 1 cách duy tâm về sự phát triển của xã hội.
Riêng Mác thì cho rằng sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội loài người, đó là quá trình hoạt động có mục đích và ko ngừng sáng tạo của con người, sự sản xuất xã hội bao gồm :sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người, 3 quá trình này ko tách rời nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội và xét đến cùng quyết định đến cùng toàn bộ sự vận động đời sống xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
2. Vai trò của sản xuất vật chất:
Sản xuất vật chất bao giờ cũng dựa vào các nhân tố cơ bản như; điều kiện tự nhiên, dân số và phương thức xã hội, trong đó phương thức sản xuất giữ vai trò chủ đạo.
Sản xuất vật chất ko những cơ sở cho sự sinh tồn của xã hội, mà còn là cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác như: nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật…
Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội, ko phải lúc nào sản xuất cũng ở trong trình độ cũ mà nói chung là ko ngừng tiến lên từ thấp tới cao, mỗi khi sản xuất đến 1 giai đoạn mới, cách thức sản xuất cũng thay đổi theo, kĩ thuật được cải tiến, năng xuất lao động được nâng cao, các quan hệ sản xuất đều biến đổi theo.
Tóm lại ,dù được xét trong toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển của xã hội loài người hay trong 1 giai đoạn lịch sử cụ thể thì sản xuất vật chất vẫn luôn đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
ở Việt Nam ta, do đặc điểm đi lên chủ nghĩa xã hội từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu, ko qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cơ sở vật chất còn thiếu thốn nghèo nàn, phương tiện sản xuất còn thô sơ, trình độ sản xuất còn thấp kém, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, cần phải tiến hành đổi mới nhiều mặt, trong đó có đổi mới về kinh tế, đổi mới cơ chế quản lí, phát huy nội lực, thu hút ngoại lực, từng bước đưa nền kinh tế tăng trưởng bền vững, tạo ra nguồn của cải vật chất dồi dào, ko chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu, đầu tư trang thiết bị hiện đại, đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, kết hợp phát triển kinh tế với các vấn đè xã hội…
CÂU 24: Hãy trình bày mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, liên hệ thực tiễn Việt Nam?
1. Khái niệm:
a. Phương thức sản xuất là phạm trù triết học dùng để chỉ cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người, là nhân tố quyết định tính chất, kết cấu xã hội, quyết định sự vận động và phát triển xã hội.
Tính chất ,kết cấu xã hội bao gồm: giai cấp, kết cấu giai cấp, quan hệ giữa các giai cấp, quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức ,triết học..ko phải do nguyện vọng và ý chí con người, ko phải do tư tưởng và lí luận, cũng ko phải do hình thức và tư nhà nước và pháp quyền quyết định, 1 khi phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ lạc hậu thì mọi mặt đời sống xã hội cũng thay đổi căn bản.
b. Lực lượng sản xuất là phạm trù triết học biểu diễn mối liên hệ giữa con người với tự nhiên, trình độ của lưccj lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, đó chính là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao đọng với kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, con người trong lực lượng sản xuất luôn luôn vận động và phát triển cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, đi từ lao động chân tay sang lao động trí óc, công cụ lao động là 1 thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất, là sức mạnh của tri tuệ được vật thể hóa, trong mọi thời đại công cụ luôn là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, chính sự biến đổi, cải tiến và hoàn thiện ko ngừng của nó đã gây nên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất.
c. Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của 1 hình thái kinh tế xã hội, nó tiêu biểu cho bản chất kinh tế của 1 hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau: quan hệ giữa người với người đối với sở hữu về tư liệu sản xuất, đối với việc tổ chức quản lí và đối với quá trình phân phối sản phẩm lao động, các mặt này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ đối với sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định với những quan hệ khác, là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của quan hệ sản xuất, ngược lại quan hệ về tổ chức quản lí và quan hệ về phân phối cũng có vai trò quan trọng, nó quyết định trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng phát triển của mỗi nền sản xuất, nó góp phần củng cố quan hệ sở hữu hoặc làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Trong xã hội có 2 hình thức sở hửu về tư liệu sản xuất đó là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là 2 mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại ko tách rời nhau, mà tác động biện chứng vào nhau hình thành nên quy luật phổ biến của lịch sử phát triển xã hội loài người, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật này đã chỉ rõ tính phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất váo sự phát triển của lực lượng sản xuất, đến lượt mình quan hệ sản xuất tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất.
Tính chất của lực lượng sản xuất và tính chất của quá trình sản xuất ra sản phẩm, quá trình này phụ thuộc vào tính chất của tư liệu sản xuất và lao động, lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân thì tư liệu sản xuất mang tính thủ công, tính chất lao động là lao đông riêng rẽ, khi máy móc ra đời đòi hỏi phải có nhiều người cùng hợp tác mới tạo ra sản phẩm thì lực lượng sản xuất phát triển và mang tính xã hội hóa.
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kĩ thuật, kinh nghiệm,kĩ năng của người lao động, quy mô sản xuất,trình độ phân công lao động, trình độ sản xuất càng cao thì sự phân công lao động càng tỉ mỉ .
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển do lực lượng sản xuất quyết định, trong quá trình sản xuất con người luôn cải tiến ,hoàn thiện công cụ lao động ngày càng cao hơn và vì vậy thói quen, kinh nghiệm, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ hơn, lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn so với sự phát triển của lực lượng sản xuất ,lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó, trong quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình thức tác động trở lại nội dung .
Cùng với sự hình thành và phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sự phù hợp đó tạo động lực cho lực lượng sản xuất phát triển, khi đạt đến 1 trình độ nhất định mà quan hệ sản xuất ko còn phù hợp sẽ phát sinh mâu thuẫn gây gắt giữa 2 mặt của phương thức sản xuất, tất yếu sẽ dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ thay thế bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là xóa bỏ 1 phương thức sản xuất đã lỗi thời thay bằng 1 phương thức sản xuất tiến bộ hơn, trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội, làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn.
Sự tác động trớ lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại lực lượng sản xuất theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ trở thành động lực thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, ko còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nó có tác dụng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự kìm hãm này chỉ mang tính tạm thời, tất yếu sẽ được thay thế bằng 1 quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn.
Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất, vì nó quy định mục đích sản xuất, quy định hệ thống tổ chức quản lí, quy định phương thức phân phối sản phẩm lao động, nó ảnh hưởng đến đông đảo người lao động lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội.
Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và quy luật chung nhất của sự phát trienr xã hội, qua sự thay thế kế tiếp nhau 5 phương thức sản xuất từ thấp tới cao, tuy nhiên ở từng quốc gia khác nhau, do điều kiện lịch sử khác nhau có thể ko phải tuần tự trãi qua các phương thức trên (vd: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội ko qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và công cuộc đổi mới hiện nay).
CÂU 25; Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng?
1. Một số khái niệm:
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của 1 hình thái kinh tế xã hội , cơ sở hạ tầng bao gồm các quan hệ sản xuất thống trị, các quan hệ sản xuất tàn dư của xã hộ cũ và các quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội sau; đặc trưng của cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất thống trị quy định, chi phối, nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì tính chất giai cấp của cơ sơ hạ tầng là do kiểu quan hệ sản xuất quy định, tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn ngay trong cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của chúng được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng, nhưng ko tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại nhau, đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng, trong đó có những yếu tố liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng như tổ chức chính trị, pháp luật, có những yếu tố liên hệ gián tiếp cơ sở hạ tầng như :triết học, nghệ thuật ,tôn giáo…
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng bao gồm: tư tưởng và thiết chế của giai cấp thống trị, tàn dư các quan điểm tư tưởng của xã hội cũ, quan điểm tư tưởng của giai cấp mới ra đời, quan điểm tư tưởng các tầng lớp trung gian, song đặc trưng chính là sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp thống trị.
Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp đối kháng là nhà nước, chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.
2.Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: vai trò ấy thể hiện ở chỗ cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về đời sống tinh thần, quan hệ sản xuất nào thống trị thì cũng tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng, mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ, những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn tới sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng, sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế xã hội cũng như khi chuyển từ 1 hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác.
Khi cơ sơ hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng mà nó sinh ra cũng mất theo, song những nhân tố riêng rẽ của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn còn tồn tại trong thời gian dài ; khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì kiến trúc thượng tầng mới phù hợp cũng xuất hiện; trong xã hội có giai cấp đối khoáng, sự biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội nhằm chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái KTXH khác cao hơn
b.Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
KTTT luôn là lực lượng tác động mạnh mẽ đến toàn bộ các mặt của đời sống xã hội và tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó; sự tác động ấy được thể hiện ở chức năng xã hội của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ
Trong xã hội có gai cấp đối khoáng, KTTT bảo đảm sự thống trị về giai cấp thống trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế; nếu giai cấp thống trị ko xác lập sự thống trị của mình về chính trị tư tưởng thì cơ sở kinh tế ko thể đứng vững được
Trong các bộ phận của KTTT thì nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng; nhà nước ko chỉ dựa vào tư tưởng mà còn dựa vào hệ thống pháp luật, các công cụ bạo lực khác như quân đội, cảnh sát để củng cố địa vị thống trị của mình.
Các bộ phận khác của KTTT như: triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những hình thức khác nhau, song thường những tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và các thể chế tương ứng.
Trong bản thân kiến trúc thượng tầng cũng diễn ra quá trình biến đổi, phát triển có tính độc lập tương đối, quấ trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác dụng của nó càng có hiệu quả, như vậy kiến trúc thượng tầng có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng khi nó tác dụng cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng, ngược lại, nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
3.Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng cho chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng trong thời kì quá độ ở nước ta chính là 1 cơ cấu kinh tế nhiều thành phần (vd) trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; các thành phần kinh tế vừa khác nhau về vai trò, chức năng , tính chất, song vừa thống nhất với nhau trong 1 cơ cấu nền kinh tế quốc dân thống nhất, chúng vừa cạnh tranh vừa liên kết, bổ sung cho nhau.
Các thành phần kinh tế đó vận hành theo cơ chế thị trường ,song bản thân cơ chế thị trường có tính 2 mặt: vừa tích cực, vừa tiêu cực, do đó cần phải tăng cường sự quản lí của nhà nước để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực và đảm bảo hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việt đổi mới KT, XD nền KT hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta ko thể tách rời những vấn đề chính trị , văn hóa, xã hội, những vấn đề thuộc kiến trúc thượng tầng. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc đã khẳng định, trong công cuộc đổi mới đất nước phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội , phải kien trì với chủ nghĩa Mác Lenin và tư tưởng Hồ chí Minh, làm cho chủ nghĩa mác lenin và tư tưởng HCM giữ vai trò chi phối trong đời sống của nhân dân ta.
Phải kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mơi chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới về chính trị, trong đổi mới chính trị phải đổi mới từng bước, phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế, mục tiêu chủ yếu của đổi mới chính trị nhằm mục tiêu thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ phải đi đôi với kĩ luật, kĩ cương ,chống cực đoan, quá khích, lợi dụng dân chủ, nhân quyền nhằm gây rối trật tự, làm mất ổn định chính trị .
Để thực hiện điều đó, chúng ta phải xây dựng nhà máy pháp quyền XHCN, nhà nước của dân do dân và vì dân, phải ko ngừng đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, scws chiến đấu của Đảng cả về chính trị, tư tưởng ,tổ chức và cán bộ.
Đổi mới về kinh tế phải gắn liền với phát triển các lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phải gắn với phát triển văn hóa và thực hiện ccong bằng xã hội.
CÂU 26: Phân tích định nghĩa giai cấp của lenin, ý nghĩa của vấn đề?
1. Giai cấp là gì?
Giai cấp là 1 trong những vấn đề quan trọng của triết học, vấn đề giai cấp đã được các nhà triết học đưa ra nhiều cách giải quyết khác nhau, tùy thuộc vào địa vị, quan điểm của từng hệ thống triết học.
Nhiều nhà triết học của giai cấp bốc lột thì cho rằng sự khác nhau về giai cấp là do có sự khác nhau về chủng tộc, màu da ,về tài năng, về địa vị xã hội, các nhà triết hoc theo thiết tự nhiên thì giải thích rằng giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về chủng tộc và tâm lí.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, các giai cấp trong xã hội hình thành 1 cách khách quan, gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của quá trính sản xuất vật chất.
Lênin dưa ra nhận định:”giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị trong 1 hệ thống sản xuất nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ trong 1 tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”.
Qua định nghĩa trên cho thấy, nói đến giai cấp là nói đến 1 hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ KTXH nhất định, do chế độ ấy sản sinh ra; mỗi giai cấp trong lịch sử đều có đặc điểm riêng, tuy nhiên định nghĩa của Lê Nin cho phép ta nắm được dấu hiệu đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất, những dấu hiệu phổ biến và ổn định nhất của giai cấp.
Giai cấp là phạm trù KTXH có tính lịch sử ; giai cấp ko phải là sản phẩm của sản xuất nói chung mà là sản phẩm của hệ thống sản xuất XH nhất định trong lịch sử; một hệ thống gc tương ứng với một hệ thống sx XH, do đó ko thể hiểu đặc trưng của từng gc cụ theneeus ko đặt nó trong mqh với các gc đối lập khác (vd:gc tư sản và gc vô sản)
Nói đến gc là nói đến sự khác nhau của các tập đoàn người về địa vị trong một hệ thống KTXH nhất định, trong đó tập đoàn người này là thống trị, còn tập đoàn người kia là bị trị; sự khác nhau ấy thể hiện ở chỗ:
Khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sx; đây là sự khác nhau cơ ản nhất, qui định sự khác nhau về địa vị của các gc trong XH(vd)
Khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động XH, trong tổ chức quản lí SX; tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu SX đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo. chỉ huy hoạt động SX và lưu thông hàng hóa tại từng đơn vị kinh tế và trên quy mô toàng xã hội.
Khác nhau về phương thức thu nhận của cải XH; các gc thống trị chiếm đoạt gía trị thặng dư của các gc bị trị; chế độ phân phối trong XH có gc đối kháng là chế độ phân phối bất công vì phần lớn của cải nằm trong tay gc thống trị, phần ít ỏi còn lại thuộc về lực lượng đông đảo trong XH đó là những người lao động
2.Nguồn gốc và kết cấu gc:
Về nguồn gốc gc: trong XH có nhiều nhóm người, tập đoàn người được phân biệt bằng những đặc trưng khác nhau:tuổi tác, giới tính, dân tộc, chủng tộc, quốc gia, nghề nghiệp…trong những sự khác nhau đó có một số là do nguyên nhân tự nhiên, một số khác là do nguyên nhân XH; những sự khác biệt đó tự nó ko sản sinh ra sự đối lập về XH; chỉ có trong những điều kiện nhất định mới dẫn đến sự phân chia XH thành nhưng gc khác nhau
CN duy vật lịch sử khẳng định sự phân chia XH thành những gc là do nguyên nhân KT; trong XH cộng sản nguyên thủy, trình độ lực lượng SX thấp kém, năng suất lao động chưa cao, XH chưa có sp dư thừa, con người phải nương tựa vào nhau để sống; gc chưa thể xuất hiện
SX XH dần dần được phát triển, việc sử dụng công cụ bằng kim loại làm cho năng suất lao động tăng lên; đã dẫn tới sự phân công lao động trong XH, chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt, sx thủ công dần trở thành ngành tương đối độc lập với nông nghiệp, lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay; sx mang tính cá thể, gia đình tỏ ra có hiệu quả hơn, chế độ tư hữu ra đời; XH phân hóa thành các gc khác nhau, hình thành gc thống trị và gc bị trị
Như vậy, sự hình thành gc diễn ra theo 2 con đường: thứ nhất là sự phân hóa bên trong nội bộ công xã thành kẻ bóc lột và người bị bóc lột; thứ hai là những tù binh bị bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc; chế độ có gc đầu tiên trong lịch sử phát triển của XH loài người đó là chế độ chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa là bước phát triển cuối cùng và cao nhất của XH có gc
Về kết cấu gc trong XH: trong XH có gc, mỗi hình thái KTXH có một kết cấu gc nhất định; khi hình thái KTXH này thay thế hình thái KTXH khác thì kết cấu gc cũng thay đổi
Mỗi kết cấu gc trong XH có gc đều có các gc cơ bản, gc ko cơ bản và tầng lớp trung gian; những gc cơ bản là những gc gắn liền với sự xuất hiện và tồn tại của phương thức sx thống trị trong XH: sự đối kháng và cuộc đấu tranh của các gc đó biểu hiện mâu thuẩn cơ bản của phương thức sx đã sinh ra chúng; những gc ko cơ bản đó là những người nông dân tự do có ít ruộng đất trong chế độ chiếm hưu nô lệ, đó là gc nô lệ, chủ nô với tư cách là tàn dư của chế độ cũ, gc tư sản với tư cách là mầm móng của XH mới trong Xh phong kiến…; tầng lớp trung gian là sp của chính phương thức đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa XH diễn ra ko ngừng trong XH, đó là tầng lớp bình dân trong XH nô lệ, là tầng lớp tri thức, tiểu tư sản trong XH tư bản…
Cùng với sự phát triển của sx, mỗi gc trong 1 kết cấu gc cũng có 1 biến đổi nhất định, những biến đổi ấy dẫn đến những thay đổi địa vị của các gc đó trong hệ thống sx XH
3.Ý nghĩa: Phân tích gc và kết cấu gc cùng với những biến đổi của nó giúp ta hiểu được địa vị vai trò và thái độ chính trị của mỗi gc đối với mỗi cuộc vận động lịch sử, đạc biệt là cuộc đấu tranh gc trong thời đại ngày nay
Câu 27: Đấu trnh gc là j?Phân tích nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh gc ở nước ta hiện nay?
1.Gc và kết cấu gc : như câu26
2.Đấu tranh gc : là 1 trong những động lực phát triển của XH có gc đối kháng ; thực chất là cuộc đấu trnh của nững gc có lợi ích căn bản đối lập nhau, biểu hiện thông qua xung đột giữa lực lượng sx mới với quan hệ sx già cỗi được giải quyết, bước quá độ chuyển từ chế độ XH này sang chế độ XH khác cao hơn
Đấu trnh gc là qui luật chung của XH có gc, song quy luật ấy có những biểu hiện đặc thù trong từng XH cụ thể, điều đó do kết cấu gc của mỗi XH, do địa vị lịch sử của mỗi gc CM trong từng phương thức sx, do tương quan lực lượng của các giai cấp trong XH quy định
Đấu tranh gc ko chỉ thẻ hiện trong thời kỳ CMXH mà còn trong thời kỳ hòa bình; trong thời kỳ này, đấu tranh gc ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của lực lượng sx, chẳng những có tác dụng cải tạo XH, xóa bỏ các lực lượng XH phản động mà nó còn có tác dụng cải tạo bản thân các gc CM(ví dụ)
Những cải cách tiến bộ nhất định của 1 quốc gia đó là kết quả của đấu tranh gc trong nước và áp lực của cuộc đấu tranh gc ở các nước trên TG(ví dụ)
Trong XH có gc, sự phát triến của các mặt văn hóa, nghệ thuật,... ko thể ko mang dấu ấn của đấu tranh gc và do cuộc đấu tranh gc thúc đẩy(ví dụ)
Ngày nay có 3 hình thức đấu tranh cùa gccn trong XHTB, đó là: đấu tranh KT, đấu tranh tư tưởng và đấu tranh chính tri; cả 3 hình thức đấu tranh trên đều wan trọng, mục tiêu cuối cùng của đấu tranh kinh tế, đtranh tư tưởng chính là tiến lên đtranh ch.trị, giành lại các quyền tự do dân chủ và cuối cùng là giành lấy chính quyền về tay nhân dân.
Chỉ có bạo lực CM mới chống lại bạo lực phản CM
3. Nội dung đấu tranh gc ở nước ta hiện nay. Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta XH vẫn tồn tại lâu dài các gc, các mâu thuẩn gc ; dấu tranh gc là 1 thực tế khách quan và được diễn ra vô cùng gay go phức tạp trong điều kiện mới :
- Đảng của gc công nhân giành lấy chính quyền.
Mục tiêu đấu tranh trực tiếp của gc công nhân đã thay đổi từ mục tiêu giành chính quyền sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là củng cố chính quyền của nhân dân lao động, xây dựng thành công CNXH mà trọng tâm là xây dựng kinh tế.
Do vậy, GCCN dưới sự lảnh đạo của Đảng phải sử dụng tổng hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh mới, trong đó có đấu tranh bằng bạo lực và bằng hòa bình, bằng giáo dục thuyết phục và bằng hành chính, pháp chế, bằng chính trị, quân sự với kinh tế, bằng cải tạo quan hệ củ lỗi thời xây dựng quan hệ mới tiến bộ, bằng liên minh giữa GCCN với các gc và tầng lớp khác.
Mặc khác, để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh XH công bằng, dân chủ văn minh, vấn đề cơ bản là phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ; thực hiện CNH-HĐH đất nước, xây dựng CNXH đi đôi với bảo vệ tổ quốc XHCN.
Toàn bộ sự nghiệp trên đây là lợi ích căn bản của dân tộc và nhân dân lao động, tất cả các gc và tầng lớp trong XH đều tán đồng, tuy nhiên củng còn 1 bộ phận nhỏ vì quyền lợi ích kỉ, vì hận thù gc, đã và đang liên kết với các thể lực phản động quốc tế chống lại sự nghiệp CM của nd ta. Vì vậy, đấu tranh gc trong thời kỳ quá độ ở nước ta, trước hết là cuộc đấu tranh giữa 1 bên là quần chúng nd lao động, các lực lượng XH đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, với 1 bên là các thế lực, tổ chức , phần tử chống độc lập dân tộc và CNXH, chống Đảng, Nhà Nước và pháp luật, phá hoại trật tự XH và an ninh quốc gia.
Các thế lực phản động trong và ngoài nước chống đối con đường CM của nd ta chủ yếu thông qua âm mưu diễn biễn hòa bình nhằm thủ tiêu sự lảnh đạo của Đảng, làm tan rã hệ tư tưởng, tiến tới lật đổ chính quyền nhân dân.
Cuộc đấu tranh của 2 con đường XHCN và TBCN củng là biểu hiện của đấu tranh gc trong thời kì quá độ ở nước ta, đây là cuộc đấu tranh giữa nhân tố thúc đẩy đất nước phát triển theo định hươngs XHCN với các nhân tố thúc đẩy đất nước dịch chuyển theo hươngs TBCN; cuộc đấu tranh này diễn ra hăngf ngày, hangf giờ trên tâts cả kĩnh vực của đời sống XH.
Trong cơ cấu giai cấp ở nước ta hiện nay, ngoài công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nd lao động khác, còn có tầng lớp tư sản, tầng lớp này có điề kiện phát triển trong nền kt thị trường; x.hiện m.thuẩn giữa GCCN và NDLĐ với t.lớp tư sản, đây là mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột l.động song trong thời kỳ quá độ đó chỉ là mâu thuẫn trong nội bộ n.dân
KT tư bản tư nhân là một bộ pận ko thể thiếu của nền KT nhiều thành phần và tầng lớp tư sản có vai trò tích cực trong sự nghiệp p.triển KT, có khả năng t.gia CNH-HĐH ĐN trong XH hiện nay, lợi ích căn bản của các nhà tư sản thống nhất với lợi ích chung cộng đồng; q.hệ giữa GCCN va NDLĐ với tầng lớp tư sản là q.hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh, đ.tranh chống nhưngx khuynh hướng tiêu cực, phi XHCN để t.hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ và văn minh
Câu 30. Tồn tại xh là gì? Những yếu tố cơ bản của tồn tại XH và vai trò củ nó trong đời sống XH?
1. Khái niệm: TTXH là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xhl bao gồm các yếu tố chính như p.thức sx vật chất, đ.kiện tự nhiên( hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ d.số…) trong đó phương thức sx vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
2. Vai trò của TTXH :
- TTXH quyết định ý thức XH.
Mỗi khi tồn tại XH thay đổi nhất là p.thức sx biến đổi thì những vấn đề thuộc về ý thức xh cũng biến đổi theo( tư tưởng, lý luận, quan điểm, triết học, pháp luật , đạo đức…)
- Tồn tại XH quyết định ý thức xh ko phải 1 cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian.
- Tồn tại XH quyết định ý thức xh ko phải 1 cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian.
Câu 31. Ý thức XH là gì? Phân tich vai trò của ý thức pháp quyền đối với các hình thái ý thức xh?
1. Khái niệm: Ý thức xh là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm lý tryền thống… nảy sinh từ tồn tại xh và phản ánh tồn tại xh trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức xh và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau; trong đó ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của 1 con người riêng biệt, cụ thể, ý thức cá nhân cũng phản ánh tồn tại xh nhưng ko thể mang tính chất xh, ko thể là quan điểm, tư tưởng tình cảm của cả 1 cộng đồng, 1 tập đoàn xh, 1 thời đại xh nhất định.
Tùy theo góc độ xem xét, người ta có thể phân loại ý thức xh theo các dạng sau:
- Ý thức xh thông thường và ý thức lý luận:
- Ý thức xh thông thường và ý thức lý luận:
Ý thức xh thông thường là những tri thức, những quan điểm của con người hình thành 1 cách trực tiếp trong hoạt động thực tiển hằng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xh,được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù quy luật.
Ý thức xh thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt đời sống xh của con người, tuy trình độ ý thức xh thông thường thấp hơn trình độ ý thức lý luận nhưng những tri thức , kinh nghiệm phong phú của nó là tiền đề quan trọng cho việc hình thành các lý thuyết khoa học. Ngược lại, ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan 1 cách khái quát sâu sác và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của sự vật hiện tượng.
- Tâm lý xh và hệ tư tưởng xh:
Tâm lý xh bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn thói quen, tập quán … của con người, của 1 bộ phận xh hoặc của toàn xh, hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hằng ngày của họ và phản ánh đời sống đó. Đặc điểm của tâm lý xh là phản ánh 1 cách trực tiếp điều kiện sống hằng ngaỳ của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xh, nó ko có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng và sâu sắc bản chất các mối quan hệ xh.
Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xh , nó được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình; hệ tư tưởng là nhận thức về sự tồn tại , là hệ thống những quan điểm tư tưởng , là kết quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xh, hệ tư tưởng được hình thành 1 cách tự giác do các nhà tư tưởng của 1 gc nhất định tạo ra và được truyền bá rộng rãi trong xh.
Tâm lý xh và hệ tư tưởng xh tuy là 2 trình độ, 2 phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xh nhưng chúng có mqh qua lại với nhau, chúng có cùng 1 nguồn gốc là tồn tại xh, đều phản ánh tồn tại xã hội, tâm lí xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây cản trở cho sự hình thành, truyền bá, tiếp thu của con người đối với 1 hệ tư tưởng nhất định, ngược lại hệ tư tưởng khoa học sẽ thúc đẩy tâm lí xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh, có lợi cho xã hội, tuy nhiên, hệ tư tưởng ko ra đời trực tiếp từ tâm lí xã hội mà từ bắt nguồn từ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm đã tồn tại trước đó.
2.Tính giai cấp của ý thức xã hội:
Ý thức xh phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của xh, trong xh có giai cấp, mỗi giai cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất riêng, có địa vị và lợi ích ko giống nhau, do đó ý thức của giai cấp cũng khác nhau, thậm chí đối lập nhau, tạo thành tính giai cấp của ý thức xh.
Tính giai cấp của ý thức xh biểu hiện ở mọi mặt đời sống tinh thần của xh, ở ý thức thông thường, ở ý thức lí luận, ở tâm lí xh và ở hệ tư tưởng xh.
Trong xh có giai cấp đối kháng thì tư tưởng thống trị của mọi thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị, các giai cấp bị trị thường chịu ảnh hưởng của tư tưởng này, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào trình độ phát triển ý thức cách mạng của giai cấp bị trị.
Việc khẳng định tính giai cấp của ý thức xh ko phủ nhận vai trò và đặc điểm ý thức cá nhân, ý thức cá nhân là ý thức mỗi con người trong xh, về bản chất và sự biểu hiện của ý thức giai cấp, do những điều kiện sinh hoạt chung quyết định, song xuất phát từ những hoàn cảnh sống khác nhau, khả năng khác nhau nên nó cũng mang những đặc điểm riêng, tạo thành những cá tính, nhân cách riêng, làm cho thế giới tinh thần của cá nhân này khác với thế giới tinh thần của cá nhân khác cùng giai cấp.
2. Các hình thái của ý thức xh;
a. Ý thức chính trị: xuất hiện trong xh có giai cấp và nhà nước, nó phản ánh các mối quan hệ chính trị, kinh tế ,xh giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, cũng như thái độ của giai cấp đối với quyền lực nhà nước, đặc trưng của ý thức chính trị là thể hiện trực tiếp và tập trung nhất lợi ích giai cấp, hệ tư tưởng chính trị thể hiện ngay trong đường lối cương lĩnh chính trị của các chính đảng, cũng như trong luật pháp, chính sách nhà nước, hệ tư tưởng chính trị hình thành 1 cách tự giác nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá.
2. Các hình thái của ý thức xh;
a. Ý thức chính trị: xuất hiện trong xh có giai cấp và nhà nước, nó phản ánh các mối quan hệ chính trị, kinh tế ,xh giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, cũng như thái độ của giai cấp đối với quyền lực nhà nước, đặc trưng của ý thức chính trị là thể hiện trực tiếp và tập trung nhất lợi ích giai cấp, hệ tư tưởng chính trị thể hiện ngay trong đường lối cương lĩnh chính trị của các chính đảng, cũng như trong luật pháp, chính sách nhà nước, hệ tư tưởng chính trị hình thành 1 cách tự giác nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá.
Ý thức chính trị có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xh, nó tác động trực tiếp trở lại cơ sở kinh tế và thúc đẩy kinh tế phát triển, tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức chính trị tùy thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Chủ nghĩa Mác-lênin mang hệ tư tưởng củ giai cấp công nhân là hệ tư tưởng triệt để cách mạng và thật sự khoa học, nó dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu tranh 1 cách tự giác nhằm xóa bỏ chế độ người bốc lột người, xây dựng 1 xh mới tốt đẹp, công bằng, xã hội xã hội chủ nghĩa.
b. Ý thức pháp quyền: là toàn bộ các tư tưởng và quan điểm của 1 giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tở chức xh và công dân, về tính hợp pháp và ko hợp pháp của hành vi con người trong xh, cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp luật ra đời cùng với nhà nước, nó phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xh thông qua những văn bản luật.
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật, mỗi chế độ xh, mỗi nhà nước chỉ có 1 hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền, nhưng trong xh có giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau có ý thức khác nhau về luật, phản ánh lợi ích của giai cấp mình.
Ra đời và tồn tại trong xh có giai cấp và nhà nước, nên ý thức pháp quyền luôn mang tính chất giai cấp, giai cấp thống trị cũng cố địa vị của mình ko chỉ bằng pháp luật mà còn dựa trên hệ tư tưởng pháp quyền để lập luận về sự cần thiết và tính hợp lí của pháp luật do mình đặt ra.
Pháp luật và hệ tư tưởng pháp quyền xh chủ nghĩa lấy chủ nghĩa Mác –lênin –hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng, phản ánh lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, bảo vệ cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xh và trật tự xh chủ nghĩa, để pháp luật xh chủ nghĩa trở thành công cụ sắc bén báo vệ chế độ và trở thành ý chí chung của mọi người, được mọi người chấp hành 1 cách tự giác, nhà nước xh chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cần ko ngừng đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức chính trị và ý thức pháp luật cho nhân dân.
b. ý thức đạo đức: là toàn bộ những quan điểm về thiện và ác, tốt và xấu, lương tâm và tách nhiệm, hạnh phúc và công bằng…và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xh, giữa cá nhân với cá nhân trong xh.
b. ý thức đạo đức: là toàn bộ những quan điểm về thiện và ác, tốt và xấu, lương tâm và tách nhiệm, hạnh phúc và công bằng…và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xh, giữa cá nhân với cá nhân trong xh.
Những quan điểm về đạo đức được hình thành rất sớm trong xh cộng sản nguyên thủy, khi xh có giai cấp ra đời, ý thức đạo đức được hình thành và phát triển như 1 hình thái ý nghĩa xh riêng.
Ý thức đạo đức và đạo đức phát triển ko tách rời với sự phát triển của xh, ý thức đạo đức phản ánh tồn tại xh dưới dạng quy tắc điều chỉnh hành vi con người bằng dư luận xh, nó bao gồm hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức, tình cảm và lí tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức có ý nghĩa quan trọng nhất, nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù về đạo đức ko thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
Sự ý thức về lương tâm ,vinh dự và trách nhiệm…phản ánh khả năng tự chủ của con người, là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức con người, là biểu hiện bản chất xh con người.
Sự ý thức về lương tâm ,vinh dự và trách nhiệm…phản ánh khả năng tự chủ của con người, là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức con người, là biểu hiện bản chất xh con người.
Trong xh có giai cấp những nội dung chủ yếu của ý thức đạo đức mang tính giai cấp, nó phản ánh các mối liên hệ giữa các giai cấp trong xh, đạo đức cộng sản được hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, đạo đức cộng sản kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức của loài người, trước hết là của nhân dân lao động, phản ánh các mối liên hệ kinh tế trong xh ko còn giai cấp, ko còn người bốc lột người, nó đòi hỏi phải hài hòa trong sự phát triển giữa cá nhân và tập thể, coi trọng sự phát triển toàn diện cá nhân, đồng thời chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Đạo đức cộng sản thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao nhất, phản ánh bản chất của xh mới, lấy hạnh phúc con người làm mục đích của sự phát triển, nội dung của đạo đức cộng sản còn bao gồm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa quốc tế vô sản, sự hình thành đạo đức cộng sản là kết quả quá trình giáo dục, đấu tranh lâu dài, bền bỉ, loại bỏ dần tàn dư xh cũ.
c. Ý thức tôn giáo: theo Ănghen “tất cả mọi tôn giáo chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc người của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã mang hình thức của những lực lượng siêu trần thế”.
c. Ý thức tôn giáo: theo Ănghen “tất cả mọi tôn giáo chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc người của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã mang hình thức của những lực lượng siêu trần thế”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét